Nhưng điều đó không có nghĩa là tôi 
		không biết gì về môn niệm Phật. Danh hiệu Phật vẫn được trì niệm khi tôi 
		cần một sự gia trì trong việc cầu nguyện và hồi hướng cho tha nhân. Chưa 
		kể trước đó, việc trì niệm Quán Thế Âm là một loại bảo bối giúp tôi 
		thoát nạn rất nhiều. 
		
		
		Quán Thế Âm cứu khổ
		
		Tôi 
		không biết mình bắt đầu niệm Phật từ khi nào. Chỉ nhớ là Quán Thế Âm rất 
		linh mỗi khi kêu tới ngài. Mẹ dặn khi cần thì hãy niệm Nam mô Quán Thế 
		Âm Bồ-tát nhớ chưa. Niệm cho liên tục, cho nhiều vào thì mới cứu được. 
		Cứu được, là Phật mới cứu mình được. Tôi đã áp dụng nó suốt thời đi học 
		của tôi. Cho những môn mà tôi không thích. Thay vì học bài và lên trả 
		bài. Tôi không học, để thời gian làm việc khác và ngồi niệm Phật suốt 
		thời gian thầy cô gọi trả bài. Đương nhiên không bao giờ tôi bị gọi lên 
		trả lời bài khi đang niệm Phật nhất tâm như thế. 
		
		Khi 
		đang chú tâm cầu nguyện, tâm mình trở nên chuyên nhất. Đó là nhân duyên 
		giúp Phật cứu mình dễ dàng. Kinh
		
		Pháp hoa, phẩm Phổ môn nói “Nếu 
		có vô lượng trăm nghìn muôn ức chúng sinh chịu khổ não, nghe Quán Thế Âm 
		Bồ-tát này một lòng xưng danh. Quán Thế Âm Bồ-tát tức thời xem xét tiếng 
		tăm kia, đều đặng giải thoát”. Đứng ở cái thế đối đãi nhị biên mà 
		nói, đương nhiên tôi phải được giải thoát khỏi việc trả bài, thoát được 
		một con số không thật to, niềm đau khổ lớn lao của tuổi học trò, thoát 
		khỏi cái nhân của nhiều khổ nạn sau đó: bị mắng, mất quà cáp, xấu hổ với 
		ban bè v.v... Đứng ở mặt “Cảm ứng đạo giao nan tư nghì” mà nói, lúc tôi 
		đang nhất tâm niệm Phật đó, tâm tôi chỉ còn một danh hiệu Phật thì cảnh 
		giới của tôi lúc đó là cảnh giới Phật. Tôi đang ở trong nước của Quán 
		Thế Âm, không phải là cảnh giới của một đứa học trò đang chờ gọi trả bài, 
		thầy cô làm sao thấy tên mà gọi? Thoát nạn là đương nhiên. Tâm không tạo 
		lực hấp dẫn để chiêu cảm thì chẳng có cảnh giới nào nhận sự chiêu cảm mà 
		tới được.       
		
		
		Quán Thế Âm cứu nạn
		
		
		Những ngày vượt biên trên sông nước, câu niệm Phật càng miên mật hơn. 
		Chưa vượt biên, niệm Phật. Đang vượt biên, niệm Phật. Vượt biên xong, vô 
		tù, niệm Phật.
		
		Con 
		người thật buồn cười. Đang yên không, tự dưng tìm việc để nhọc thân nhọc 
		tâm, rồi niệm Phật cầu cứu. Nhân khổ không gây thì cần gì niệm Phật cứu 
		khổ? Nhưng không, thích gây nhân khổ, đủ duyên quả khổ tới… rồi niệm 
		Phật xin cứu khổ. Cũng may là biết Niệm Phật. Không thì bỏ đời nơi sa 
		mạc Sa-bà.
		
		Cũng 
		nhờ giai đoạn vô minh bổ xứ này mà khi đọc được những dòng trong phẩm 
		Phổ môn, niềm tin đối với chư Phật và kinh luận càng tăng thạnh, vì đã 
		có sự thực nghiệm hẳn hoi.
		
		Một 
		mình trên boong tàu, trong cái giá rét của biển đêm, tôi chứng kiến cảnh 
		nửa con tàu bị dìm sâu trong nước khi một đợt sóng ào tới. Nước len tới 
		người tôi và dừng đó rồi đi. Cứ thế mà hết đợt này đến đợt khác. Tôi 
		trốn cái biển người nóng rực ở hầm tàu để đối diện với khoảng mênh mông 
		tối đen và lạnh ngắt. Chưa khi nào thế nhị biên đối đãi ở đời hiện rõ 
		như thế với tôi. Người ta tìm cách tránh cái khổ này và rơi vào một cái 
		khổ khác mà không biết. Nếu lúc đó không có câu niệm Phật, không biết 
		tôi thế nào khi thân không biết bơi và tay phải bấu chặt vào thành để 
		không bị nước lùa đi. Một câu niệm Phật trong tâm, tôi không có thời 
		gian nghĩ đến cái chết cũng không còn sợ hãi khi phải đối diện với đêm 
		tối mênh mông của biển trời. Mọi thứ trở thành hãi hùng là khi hồi tưởng 
		lại. “Nếu 
		có người trì danh hiệu Quán Thế Âm Bồ-tát này, khi bị nước lớn làm trôi, 
		xưng danh hiệu Bồ-tát này liền được chỗ cạn”1. 
		Đúng là mênh mông giữa biển to sóng lớn mà nước chẳng thể đến thân.
		
		
		Khổ 
		thế mà nó trôi tới Thái Lan hay Philippins thì không nói. Trở về Rạch 
		Giá. Tàu bị đuổi bắt, chạy ngược sóng, bể bình nhớt và quay về thăm Rạch 
		Giá. Bà con không còn thời gian để suy nghĩ, chỉ biết bươn chạy sau 
		những ngày nóng bức ngạt thở trong hầm tàu, muốn mau trở về cái nơi đã 
		muốn từ bỏ ra đi. Hốc hác, lem luốc, không phải dân bản xứ mà chạy theo 
		lối từng đàn thì một đứa con nít còn biết xuất xứ từ đâu, huống là công 
		an. Tém gọn. 
		
		
		Chồng tôi không theo lối đó. Kế hoạch là anh ở lại tàu chờ đêm xuống. 
		Một mình men theo lạch nước về thành phố. Tôi thỏa thuận ở lại một mình 
		chờ công an tới tiếp thu, để anh về một mình cho khỏi vướng chân. 
		
		
		
		Người ta về trụ sở công an bằng đường bộ. Tôi thì được chở về bằng 
		honda. Người chuyên niệm Phật đương nhiên phải khác thường dân. Thiệt ra 
		là vì… cái quần rách tuốt từ lưng xuống, phất phới như áo đầm không chỉ. 
		Nhảy từ mũi tàu xuống. Hai thước. Vướng vào cái gì đó và rách toạc ra. 
		Tôi không chịu đi, ngồi ì đó. Thế là họ đem xe lên rước, để còn kịp khám 
		xét và tống vào trại giam.
		
		Sợi 
		dây chuyền mang hình Quán Âm Bồ-tát được cho giữ lại. Sợi dây chuyền 
		bằng vàng khối lận trong lưng quần thì họ lại không tìm thấy dù rờ tới 
		rờ lui mấy bận. Ngày đó nghĩ nhờ niệm Quán Thế Âm Bồ-tát mà không mất 
		của. Ngày nay thì nghĩ niệm Quán Thế Âm chỉ là phần hỗ trợ. Cái chính là 
		mình không lấy của ai nên không ai lấy được của mình. Đó là nhân chính. 
		Còn nếu đã lấy của ai thì nghiệp này phải là bất định nghiệp, mới có thể 
		tạm chuyển nhờ câu niệm Phật.  
		
		Ngồi 
		sau song sắt chưa tới mươi phút thì huyết ra nhễ nhãi. Tôi báo tôi có 
		thai, cho tôi đi bệnh viện không tôi chết. Họ đưa tôi vào trạm xá Rạch 
		Sỏi.
		
		Bà 
		trưởng trạm, cán bộ tiếp quản trạm ấy là người hiền từ. Bà nhìn tôi 
		thương cảm khi nghe vượt biên có đôi mà khi gặp nạn chỉ còn một mình. 
		Ngày đó tôi đang cần một sự thương cảm để sống sót nên vờ luôn. Không 
		giải thích đây là thỏa thuận của chúng tôi. Anh phải về để kịp ngăn cản 
		chủ tàu tới lấy tiền. Bởi vượt biên xong, mấy ngày sau mới giao tiền. 
		Nếu không về kịp, tiền sẽ mất. Bà không biết anh đang rất cực khi phải 
		len về thanh phố với cái bụng trống đã ba ngày, người lại không một đồng 
		lận lưng.
		
		Bà 
		hỏi tôi huyết ra nhiều vậy chắc đau lắm, cái thai chắc ra luôn rồi. Tôi 
		không đau nhưng cũng theo ý bà cho đau luôn. Và nghiệm ra trong đầu một 
		điều mà mình chưa từng biết. Ra huyết mà đau thì cái thai ra luôn. Còn 
		ra huyết mà không đau thì cái thai còn đó. Nếu mình thoát về kịp thì 
		mình có thể giữ cái thai khi nó chưa ra. Tôi bắt đầu nuôi ý định đó 
		trong đầu. Và hy vọng nhờ tình thương, bà sẽ thả tôi về. Nhưng làm gì 
		làm phải cầm máu trước đã.          
		
		Ở 
		thế giới đối đãi này, đã gặp người mình cho là tốt, thì cũng xuất hiện 
		hạng mình thấy là xấu. Nhị biên là thế. Thế giới này không phải hình 
		thành từ thế nhị nguyên sao? Thiện và ác, âm và dương v.v… Không có cặp 
		đối đãi đó, không có thế giới này. Và dù ở trong thế đối đãi ấy, nếu 
		mình không thấy cái này là tốt, thì cũng không nương đâu để nói cái kia 
		là xấu. Nhưng một khi tốt đã hình thành trong đầu thì xấu cũng sẽ xuất 
		hiện khi đủ duyên.
		
		
		Thế đối đãi mà tôi gặp đó là con bé cán bộ nằm vùng. Nó rất ghét người 
		vượt biên, nhất là mấy đứa như tôi. Bà trưởng trạm bảo nó chích thuốc 
		cầm máu, nó gật đầu nhưng không chích. Tôi thấy chết tới nơi, chuyển câu 
		niệm Phật thành Bạch Y thần chú cho hiệu nghiệm hơn. Thương mẹ. Thủ sẵn 
		mọi thứ cho con gái hết.   
		
		Tôi 
		tin Quán Thế Âm Bồ-tát vô cùng.
		
		Hôm 
		đó, một người phụ nữ được chuyển vào trạm vì bí tiểu. Bà lấy ghe làm 
		nhà. Sinh 8 đứa con đều trên ghe, chưa từng đến trạm xá. Lần này cũng 
		như mọi lần, trước khi sinh, bà uống nước lá gì đó cho dễ sinh, không 
		ngờ nó khiến bà bí tiểu, chích thuốc rồi vẫn không thông, phải chuyển 
		lên viện lớn. Trước khi đi, con bé chích cho tôi một mũi cầm máu.
		
		Tôi 
		đã nhờ bán sợi dây chuyền Quán Thế Âm. Cho người phụ nữ ở ghe một ít. 
		Một ít cảm tạ người phụ nữ đã cho tôi ăn cơm trắng thịt kho mấy ngày 
		liền. Một ít để làm lộ phí về nhà. 
		
		
		Quanh tôi là những con người rất tốt bụng. Nghèo nhưng sẵn sàng chia sẻ. 
		Không nghĩ đến chuyện đền đáp. Bà không cho tôi bán sợi dây chuyền nhưng 
		không bán thì tôi không có tiền về xe. 
		
		Nhân 
		duyên vượt trạm của tôi cũng đến. 
		
		Bà 
		trưởng trạm không thể có mặt thường xuyên ở trạm xá. Mọi việc đều do con 
		bé kia trông coi. Nhưng giờ con bé có việc nên bà phải đưa thằng cháu 
		xuống trông hộ. Nhìn thằng bé, tôi nhớ lại lời dặn của ông cậu chồng: 
		“Con có cái mạng hễ bị nạn mà gặp con trai thì nó sẽ cứu con”. Lời nói 
		đó chưa sai bao giờ. Tôi tin là Quán Thế Âm đã cứu tôi. 
		
		
		Thằng nhóc chỉ khoảng bằng tuổi tôi. Trắng trẻo dễ thương. Nó hỏi tôi bị 
		gì mà xanh mét như vậy. Tôi nói hư thai mà chắc sống không được nữa rồi, 
		vì ở đây không có điều kiện chăm sóc như ở thành phố. Nó thương cảm “Sao 
		mày không về thành phố. Không có tiền sao?”. “Không, tao vượt biên, bị 
		giam ở đây”. Nó đề nghị “Mày trốn đi. Coi như tao không thấy”. Tôi chỉ 
		đợi câu đấy là chuồn. Nhưng… sức không có, chân không dám đi nhanh, tôi 
		chỉ biết liều mạng từng bước thật chậm, mặc tới đâu hay tới đó. Tôi hỏi 
		đường ra bến xe Rạch Sỏi và từng bước nặng nhọc lên xe lam. Mọi người im 
		lặng nhìn tôi. Họ biết tôi từ đâu ra. 
		
		Tới 
		nơi thì trời đã trưa. Vé xe đã hết và cũng chỉ còn xe về Cần Thơ. Về Cần 
		Thơ cũng được. Có dì tôi ở đó. Nhưng nhìn cảnh đu xe và nhớ đến con 
		đường dằn xốc khi tới đây… Tôi không thể chạy và đu theo xe trong tình 
		trạng này. Đu được rồi cũng không thể chịu nổi khi phải đứng một đoạn 
		đường quá dài. Tôi không biết phải làm gì với hoàn cảnh như vậy. Chỉ 
		biết dựa vào câu niệm Phật và kêu Bố ơi!   
		
		Một 
		người đàn bà ngoắc tôi lại. Bà nói bà có vé về Cần Thơ. Hai vé. Nếu tôi 
		về Cần Thơ, bà sẽ nhường lại một vé với giá gốc. Tôi bất ngờ... Một 
		người phụ nữ rách rưới, với hai đứa con nhỏ đứng chờ tôi, chỉ để bán cho 
		tôi cái vé với giá gốc, trong khi giá chợ đen vẫn đang được săn lùng ráo 
		riết, lại về đúng tuyến Cần Thơ. Tôi chỉ biết cảm ơn và tin vào Quán Thế 
		Ấm cùng Bố. 
		
		Lên 
		xe, tôi ngủ thiếp đi không còn biết gì nữa. 
		
		Tới 
		bến, lơ xe gọi dậy, tôi không còn thấy bà nữa. Bà xuống xe ở đâu tôi 
		không biết. Cũng như bà ở đâu để chờ giao vé cho tôi, tôi cũng không 
		biết. Những gì còn đọng lại trong tôi là một người đàn bà rách rưới với 
		hai đứa con nhỏ. Tôi chỉ biết Quán Thế Âm đã cứu tôi, nhưng chưa bao giờ 
		hình dung Quán Âm hiện thân cứu tôi, cho tới khi tôi nhìn thấy tấm hình 
		Quán Thế Âm ngồi ở biển Nam Hải với hai đứa bé đùa hai bên, treo trong 
		chùa Đại Giác.
		
		
		Cầu gái sinh gái, cầu trai sinh trai
		
		Tôi 
		về tới Cần Thơ, dì ôm tôi khóc và dẫn tôi xuống bệnh viện. Bác sĩ đòi bỏ 
		cái thai. Tôi không chịu. Nó đã không ra khi huyết ra khá nhiều, cớ gì 
		tôi lại bỏ nó khi tôi đã lết về được tới đây. Bác sĩ cho thuốc giữ thai. 
		Uống thuốc vào, nôn thốc nôn tóe. Uống chút nước vào nôn. Ăn chút gì 
		cũng nôn. Nôn liên tục. Nôn cả mật xanh mật vàng. Tôi nói với dì “Quanh 
		đây có chùa nào không dì. Có thầy nào bắt thuốc không dì. Cho con đi…”. 
		Dì vừa khóc vừa nói: “Có có, để dì mang con xuống chùa ni uống thuốc”.
		
		Thầy 
		trẻ lắm, mảnh mai như con gái, da trắng, môi hồng. Thầy bắt mạch và nói: 
		“Cô có thai nhưng thai yếu lắm. Tôi cho cô uống 10 thang giữ thai”. Tôi 
		gật đầu. Uống thang đầu, tôi ngưng ói. Và sinh con gái đầu lòng.       
		
		
		
		Những hình ảnh nói trong kinh điển có khi chỉ để biểu trưng cho những gì 
		sâu xa cần nói, không hẳn chính là hình ảnh ấy. Nhưng với tôi thì mọi 
		hình ảnh đều có giá trị từ thô đến tế. Thô là những gì chúng ta nhận 
		được hiện thực trong đời bằng chính hình ảnh ấy. Tế là những gì mà kinh 
		điển muốn hiển thị. Tùy tâm thức của chúng sinh mà kinh điển có vô lượng 
		nghĩa. 
		
		Khi 
		tôi có thai, thầy thuốc nói sinh con trai. Tôi tin thầy hết mực vì tuy 
		là thầy thuốc nhưng thầy bắt mạch và báo chuyện đời cho gia đình tôi rất 
		chính xác. Ngày đó tôi vẫn còn coi tử vi. Cung tử tức, đất đó sinh con 
		trai đầu lòng sẽ thất. Đến khi ra huyết, tôi liên hệ chúng với nhau và 
		niệm Phật cầu xin chuyển thai. Mọi việc với tôi là linh ứng. Bù lại, 
		người bạn cầu trai nhưng khi sinh lại ra gái. Thắc mắc. Một vị thầy đã 
		giải thích “Vì chúng ta đã hiểu kinh Nhất thừa theo kiểu tầm thường, nên 
		thấy linh hay không linh”. Tôi không phản bác điều đó, nhưng có cái nhìn 
		khác đi một chút. Gọi là Nhất thừa thì một địa tức là tất cả địa, thô 
		hay tế đều có thể ứng. Nếu căn lành chúng ta đầy đủ, mọi thứ đều có thể 
		hiện. Chỉ là tùy mức độ hình trạng miêu tả trong kinh mà đòi hỏi căn 
		lành của chúng ta tương ưng đến đâu. Trì danh, nếu chưa đủ lực cảm ứng 
		thì nghiệp chưa thể chuyển theo mong muốn của mình. Đó là việc tất 
		nhiên. Không hẳn kinh chỉ có nghĩa bóng. 
		
		
		Lực hấp dẫn 
		
		Đây 
		là khái nhiệm mà hiện nay một số vị bên phương Tây đã nhắc đến nó, diễn 
		tả tình trạng tâm chiêu cảm vật. Không phải bây giờ họ mới tìm thấy. 
		Luật này đã được khám phá từ lâu bởi một số ít người, nhưng giờ mới được 
		hiển thị rộng. “Khi 
		bạn nhìn vào những điều bạn muốn. Bạn nói vâng tôi muốn. Với điều đó bạn 
		đang tạo một suy nghĩ tích cực vào luật hấp dẫn. Và luật hấp dẫn sẽ đáp 
		ứng lại các suy nghĩ này”2. 
		Với cái nhìn của luật hấp dẫn, chỉ cần bạn giữ được tinh thần lạc quan, 
		biết ơn và mong muốn hoài về điều gì đó một cách nghiêm túc hết mình, 
		bạn sẽ được toại nguyện mọi thứ. “Tất 
		cả mọi thứ đều là sự hấp dẫn. Luật hấp dẫn luôn luôn hoạt động bất chấp 
		bạn có tin và hiểu luật hay không?... Bạn sẽ đạt được điều giống với 
		điều bạn suy nghĩ nhất. Và cũng tự hấp dẫn điều bạn nghĩ đến với bạn. 
		Nguyên tắc này có thể rút thành trong ba từ rất đơn giản “Suy nghĩ - trở 
		thành - thành quả” … Cho nên, khi bạn nhìn vào những điều bạn muốn. Bạn 
		nói vâng tôi muốn. Với điều đó bạn đang tạo một suy nghĩ tích cực vào 
		luật hấp dẫn. Và luật hấp dẫn sẽ đáp ứng lại các suy nghĩ này” 
		v.v...  
		
		Tôi 
		đã có khả năng đó ở một số việc và tôi cũng đã gặp khả năng đó ở một số 
		người trong đời sống thường nhật của mình. Khi tôi nghĩ đến một món ăn, 
		tôi liền đươc toại nguyện. Khi tôi không muốn tiếp duyên hay làm Phật 
		sự, tôi chỉ cần nghĩ “tôi muốn một mình”, mọi thứ sẽ được y nguyện, 
		không một bóng người lai vãng hay hỏi thăm. Khi tôi muốn làm Phật sự, 
		tôi nói “giờ nên làm Phật sự”, và duyên tới để làm cho đến khi tôi không 
		muốn làm nữa. 
		
		Một 
		buổi chiều, đang trên đoạn từ Thường Chiếu về thất mình, tôi chợt thấy 
		một phụ nữ và tạt vào đó. Không có lý do và cũng là việc lạ với thói 
		quen thường ngày của tôi. Tôi ít để tâm đến ai trên đoạn đường mình đang 
		đi và cũng không có tính cởi mở thăm hỏi ai ngay cả với người thân của 
		mình. Nhưng hôm nay tôi ghé ngang đó. Có nguyên do nhưng ngoài tầm kiểm 
		soát của tôi. Người phụ nữ ấy muốn về thành phố nhưng không biết đường. 
		Bà niệm Quán Thế Âm cầu gia bị và tôi xuất hiện, đáp ứng nhu cầu của bà. 
		Đương nhiên, tôi không phải là Quán Thế Ấm. Tôi không hề ý thức gì về 
		việc ấy. Tôi bị dẫn đi bởi một lực. Tôi muốn nói đến một lực vô hình đã 
		dẫn tôi lại đó. Cũng như loại lực đã giúp tôi chiêu cảm hay đẩy lùi 
		những Phật sự mà tôi mong muốn. 
		
		Lực 
		hấp dẫn nói đó khiến tôi liên tưởng đến cảnh giới của chư thiên, chỉ cần 
		chư vị nghĩ đến là cảnh vật liền xuất hiện. Khác chút là chư thiên nghĩ 
		xong mọi thứ liền hiện, người đời dù được toại nguyện cũng phải mất ít 
		nhiều thời gian và công sức. Lực hấp dẫn cũng làm tôi liên tưởng đến 
		năng lực của lời nguyện. Nó đã giúp chư Bồ-tát vào thế gian độ sinh khi 
		nghiệp đã hết dẫn lực. Nguyện là một dạng của mong muốn.
		
		Chỉ khác là hấp lực mà Phật giáo nói có tác dụng không chỉ dựa trên sự 
		mong muốn, thứ quyết định vẫn là thiện nghiệp ở mỗi người. Người 
		đời muốn mà được là nhờ phước báu đã sẵn tạo trong quá khứ. Chư thiên 
		nghĩ mà liền được vì có thiện nghiệp của chư thiên. Bồ-tát muốn theo 
		nguyện lực độ sinh, phải có tịnh nghiệp ở một mức nào đó kèm với công 
		đức phát Bồ-đề tâm.    
		
		Song 
		dựa vào cái nhìn của Tứ ý thú thì lực hấp dẫn nói đó vẫn có mặt tích cực 
		của nó. Tứ ý thú là một loại công cụ mà thiếu nó, chúng ta khó hiểu được 
		hết những gì kinh luận đã nói. Xảy ra luận điệu “nhân một quả nhiều là 
		không tương ưng, là sai trái” như một vị đã biện hiện nay, là do không ý 
		thức được loại “công cụ” này. 
		
		Nhiếp chánh luận, bản dịch của ngài Huyền Trang ghi: “Ngoài ra còn có Tứ 
		ý thú và Tứ bí mật. Mọi lời Phật nói nên căn cứ vào đó mà lý giải và 
		quyết định”3. 
		Khi đọc kinh Phật, nếu dùng 4 thứ ý thú và 4 thứ bí mật đó làm nền tảng 
		để hiểu thì sẽ thông tỏ những ý thú mà Phật muốn nói trong kinh.
		
		
		Hoa nghiêm thám huyền ký ghi: “Biệt thời ý thú là, như nói ‘Nếu tụng 
		danh hiệu Đa Bảo Như Lai thì đối với Bồ-đề vô thượng chánh đẳng đã được 
		quyết định’. Hoặc nói ‘Do chỉ phát nguyện, liền được vãng sinh thế giới 
		Cực Lạc’”. 
		Chỉ 
		nói đơn giản giữa nhân và quả như thế. Không nói đến duyên chi phối bên 
		trong và thời gian đạt được thành quả là khi nào. Với lực hấp dẫn, mong 
		muốn là nhân và thành công là quả. Chỉ nói mong muốn là nhân và quả là 
		sự toại nguyện. Bỏ qua giai đoạn nhờ mong muốn mà có sự tạo tác. Tạo tác 
		mới là duyên trực tiếp đưa đến cái quả toại nguyện. Trong cái duyên trực 
		tiếp đó, các thiện nghiệp như bố thí, trì giới mới là duyên trực tiếp 
		đưa đến sự toại nguyện. Không phải chỉ dựa trên sự mong muốn thôi mà 
		được toại nguyện. Đây là chỗ mà lực hấp dẫn chưa nhìn thấy được. Bởi lực 
		hấp dẫn được khai triển dựa trên kinh nghiệm của một số người mà thiện 
		căn quá khứ đã có. Nó được tìm thấy do quy nạp các kinh nghiệm, không 
		phải do nhìn thấu bản chất các sự vật như Đức Phật và chư vị Bồ-tát. Chư 
		vị nói nhân nói quả mà không nói duyên, không phải vì không thấy được 
		các duyên này như chư vị hấp dẫn lực, mà vì “Để 
		khuyến 
		khích kẻ giải đãi, đối với pháp không chịu tinh cần mà nói như vậy. Ý 
		cũng muốn trưởng dưỡng kẻ có thiện căn đời trước. Như thế gian nói chỉ 
		nhờ một đồng mà được đến hàng ngàn”4. 
		Đây là lời giải thích của ngài Vô Trước. Chư Bồ-tát chỉ nói nhân và quả 
		mà không nói đến duyên vì hai lý do. Một là để sách tấn kẻ giải đãi. Hai 
		là để nói lên thực trạng của các vị đã có nhân lành từ trước. Nhờ nhân 
		lành đó mà hiện tại sự mong muốn đưa đến cái quả thành tựu mà các nhà 
		hấp dẫn lực đã nói.    
		
		Thực 
		tế cũng cho thấy không phải khi nào muốn cũng được và tất cả mọi người 
		đều được khi muốn. Những gì thuộc về tiền tài danh vọng, tôi đã phải tự 
		tập cho mình cái tính không nghĩ đến nó, trước khi biết đến pháp 
		Biết vọng không theo. Bởi không nghĩ thì thôi, nghĩ là liền ra 
		ngược. Và những người nghèo, có lẽ là những người mong giàu có hơn ai 
		hết, nhưng họ vẫn đứng chờ ở hàng vé số mỗi chiều, hy vọng trúng một tờ 
		để cuộc sống đổi khác hơn, nhưng có người vẫn nghèo cho đến khi chết.
		
		
		Nói 
		chung những gì các nhà hấp dẫn lực đã khám phá không phải không có giá 
		trị ít nhiều, nhưng đa phần chỉ mới dừng ở mặt hiện tượng, chưa thấy 
		được chiều sâu của vấn đề. Như nền vật lý hiện đại thấy được mọi hiện 
		tượng ở thế gian có hay mất đều không ra ngoài nhân quả (Lũ lụt là do 
		phá rừng. Bệnh là do trời lạnh v.v…), nhưng chưa thể thấu nhân quả ở mặt 
		sâu xa hơn (Nạn tai bệnh tật là do sát sinh. Đói khổ là do trộm cắp keo 
		kiết v.v…).
		
		
		Thành tựu mong muốn có điều kiện
		
		Với 
		cái nhìn của chư vị, lực hấp dẫn là một loại năng lực lớn chi phối hết 
		thảy mọi thứ ở thế giới này. Thực ra dù có năng lực lớn thế nào, cũng 
		không thể không bị chi phối bởi lý Nhân quả. Chính vì thế, không phải cứ 
		muốn là đã thành tựu điều mong muốn ấy, có khi được, có khi không. Cũng 
		không phải ai muốn cũng đều thành tựu điều mình muốn, người được, người 
		không. Do chịu sự chi phối của luật Nhân quả nên nó hoạt động có điều 
		kiện. Đó là việc tất yếu ở thế gian này. Phật độ sinh hay ra đời còn 
		phải lệ thuộc vào nhân duyên, huống là vạn pháp. Xuất hiện rồi, người độ 
		được, người không độ được, đều do nhân duyên. Lực hấp dẫn ấy muốn xuất 
		hiện cũng không thể ra ngoài lý ấy. Tùy điều kiện của nhân sự mà luật có 
		tác dụng mạnh hay yếu.
		
		Điều 
		kiện đó là gì?
		
		Tạo 
		cái nhân phù hợp với cái quả mà bạn mong muốn.
		
		Bạn 
		muốn giàu có sung túc, bạn phải biết bố thí. Nếu nhân bố thí của bạn 
		không có, bạn muốn bao nhiêu cũng vậy thôi, cái quả không thể xảy ra khi 
		nhân ấy chưa được thực hiện. Khi bạn muốn giàu có mà bạn có thể hưng 
		phấn tinh thần, có thể lạc quan yêu đời và bạn thấy cái quả xuất hiện, 
		là vì nhân bố thí bạn gieo trong tiền kiếp đã khá dày, chỉ cần đủ duyên 
		là hiện khởi. Khi bạn mong muốn và quyết tâm thực hiện nó v.v… là lúc 
		duyên đủ đầy để bạn được cái quả ấy. 
		
		
		Người phụ nữ muốn về Sài Gòn, bà mong muốn và niệm Phật cầu gia bị. Ý 
		niệm của bà thành công vì bà đã sẵn có căn lành mà niệm Phật cầu gia bị 
		là một điển hình. Đó là điều kiện giúp bà tạo ra được lực hấp dẫn với 
		tôi, để mong muốn của bà được toại nguyện. Cũng như tôi phải có nhân 
		duyên với bà, lực ấy mới chiêu cảm được. Có thể là duyên lành bà đã tạo 
		ra trong quá khứ với tôi, có thể bắt nguồn từ lời nguyện của tôi khi bắt 
		đầu phát Bồ-đề tâm. Và nhờ nguyện lực của Quán Thế Âm mà nhân duyên được 
		nối kết, mọi việc được y nguyện. 
		
		Bạn 
		muốn có học vị bằng cấp, bạn phải tạo cái nhân học hành chăm chỉ và 
		phước báu cho bản thân, thứ mà người ta nhìn nó như một loại may mắn hay 
		thi tài đỗ phận, việc mong muốn của bạn mới thực hiện được. Hiện thực 
		thì, có những người không học vẫn có bằng cấp nhờ đút lót, cũng có người 
		học rất chăm mà vẫn không đậu. Đó là do căn lành gieo từ quá khứ mạnh 
		hay yếu. Trên mặt hiện tượng, chúng ta thấy bất công, nhưng thật ra mọi 
		thứ đều bị Nhân quả chi phối. Người không học mà đậu do đút lót là người 
		có căn lành ở quá khứ, nhưng lại dùng căn lành ấy tạo nghiệp bất thiện 
		trong hiện tại. Một khi phước báu quá khứ hết, đủ duyên quả báo xấu hiện 
		ra. Tất cả pháp ở thế gian đều như thế. Phật chia chúng sinh làm bốn 
		hạng người, từ tối vào tối, từ tối vào sáng, từ sáng vào sáng, từ sáng 
		vào tối là như vậy.    
		
		Nói 
		chung, trên lý thì chư Phật có thể phương tiện bằng cách nói nhân quả ở 
		mặt gián tiếp để sách tấn chúng sinh, nhưng trên sự thì nhân nào sinh ra 
		quả nào đều phải theo trình tự của nó thì quả mới thành tựu.
		
		
		Từ bi tức là Quán Thế Âm               
		
		Đó 
		là lời dạy của Lục Tổ trong kinh
		
		Pháp bảo đàn, một bộ kinh trọng yếu của Thiền Tổ sư. Mọi thứ đều 
		quy tâm. Chúng sinh và Phật với cái nhìn hiện nay thấy phân hai rõ ràng. 
		Ta, người, chúng sinh, Phật. Tâm trong ta còn Phật và chúng sinh thì 
		ngoài ta. Với cái nhìn của Nhất thừa, tất cả không có gì ngoài tâm. “Tam 
		giới duy tâm, vạn pháp duy thức”. 
		
		
		Chúng sinh, Tổ Mã Minh nói “là do tâm, ý, ý thức cùng sinh”. Chúng sinh 
		ngoài tâm chỉ là bóng dáng của chúng sinh trong tâm. “Tâm sinh thì tất 
		cả pháp sinh. Tâm diệt thì tất cả pháp diệt”5. 
		Nếu tâm, ý và ý thức chẳng sinh thì ngay đó là Phật. Phật hay chúng sinh 
		đều từ tâm này mà ra. “Niệm trước mê là chúng sinh. Niệm sau giác là 
		Phật”6. 
		Kinh
		
		Pháp bảo đàn nói: “Phật 
		nhằm ở trong tánh mà tạo, chớ hướng ra ngoài mà cầu. Tự tánh mê tức là 
		chúng sinh. Tự tánh giác tức là Phật. Từ bi tức là Quán Thế Âm. Hỷ xả 
		gọi là Đại Thế Chí. Năng tịnh tức là Đức Thích Ca. Bình trực tức là Phật 
		Di-đà. Nhân ngã ấy là núi Tu-di. Tà tâm là biển độc. Phiền não là sóng 
		mòi. Độc hại là rồng dữ. Hư vọng là qủy thần. Trần lao là rùa trạnh. 
		Tham sân là địa ngục. Ngu si là súc sinh...”. Tức, là ngay đó mà 
		không phải đó. Tâm chúng sinh, một niệm từ bi thì những niệm còn lại 
		chưa hẳn đã từ bi, dù từ bi chưa hề thiếu vắng. Chưa hẳn thì niệm nào từ 
		bi niệm ấy đang trong ranh giới của Quán Thế Âm, niệm nào chưa từ bi thì 
		niệm ấy chưa phải là Quán Thế Âm. Trong khi Quán Thế Âm thì niệm niệm từ 
		bi. Nói phải mà chưa phải là vậy. 
		
		Vua 
		nước Câu-viêm-di tên là Ưu-đà-diên. 
		
		Đệ nhất phu nhân của vua tên là Xá-ma, là một tín nữ trung thành của 
		Phật. Bà thường hay thân cận dúng dường Như Lai và ca ngợi công đức của 
		Ngài hết mực. Ngược lại, đệ nhị phu nhân, vì thiếu trí tuệ và hay có 
		lòng ganh ghét nên thường tâu với vua rằng: “Đức Như Lai và hàng đệ tử 
		có chỗ không chánh đối với đại phu nhân”.
		
		
		Vua nghe xong giận lắm, lấy cung tên bắn phu nhân Xá-ma. Vì thương xót 
		vua, phu nhân Xá-ma nhập từ tam muội. Tên vừa bắn ra, liền quay trở lại 
		dừng ngay trước trán vua. Tên ấy cháy đỏ như một khối lửa trông rất đáng 
		sợ. Vua bắn ra ba phát, chúng đều như vậy.
		
		
		Vua Ưu-đà-diên thấy sự việc ấy, toàn thân lông tóc dựng đứng, kinh sợ 
		hối hận nói với phu nhân: 
		
		
		- Khanh là tiên nữ hay long nữ, là Dạ-xoa, Càn-thát-bà nữ, Tỳ-xá-giá nữ, 
		hay La-sát nữ?
		
		Phu 
		nhân Xá-ma trả lời: 
		
		- 
		Thiếp không phải thiên nữ, cũng không phải La-sát nữ. Đại vương nên 
		biết, thiếp nghe Đức Phật thuyết pháp, thọ trì 5 giới làm cư sĩ. Vì 
		thương đại vương, thiếp nhập từ tam muội. Dầu Đại vương sanh lòng bất 
		thiện với thiếp, nhưng do bi nguyện nên thiếp không bị tổn hại7.
		
		Tam 
		muội là chánh định. Có chánh định tức tâm không bị các niệm chúng sinh 
		chi phối để rơi vào tán loạn. Không sợ hãi, không oán hờn, không ghét bỏ 
		v.v… mà chỉ một tâm từ trải khắp, nên nói “nhập từ tam muội”. Muốn chúng 
		sinh được an vui, ban an vui cho chúng sinh là bi nguyện của Bồ-tát. 
		Trong kinh
		
		Lăng nghiêm, Quán Thế Âm bạch Phật “Bạch 
		Thế Tôn! Con nhớ vô số hằng sa kiếp về trước, có Phật ra đời là Quán Thế 
		Âm, từ Đức Phật đó mà con phát tâm Bồ-đề…”. Quán Thế Âm được 
		truyền thừa từ Quán Thế Âm và hiện khởi ba mươi hai ứng hóa thân vào 
		trong thế gian. Thiền sư Hàm Thị bàn: “Bản 
		giác diệu tâm đó, nguyên chúng sinh cùng với Phật đồng một thể. Nay cùng 
		với Phật đồng một thể nên hay đồng một từ lực. Cùng chúng sinh đồng một 
		thể nên hay đồng một bi ngưỡng. Bi ngưỡng, là chúng sinh bi ngưỡng, cũng 
		do giác tâm huân tập mà sinh bi ngưỡng, cũng do sức từ chiêu cảm khiến 
		sinh bi ngưỡng. Chỉ đồng một bi ngưỡng cũng sinh sức từ vậy ”8. 
		Như thế thì Quán Thế Âm là Quán Thế Âm hay chẳng phải là Quán Thế Âm? 
		Bạn là Quán Thế Âm hay chẳng phải là Quán Thế Âm? Phải hay chẳng phải là 
		nhị biên phân biệt. Nhận đó thì ba mươi hai ứng hóa thân liền mất.
		
		
		
		Cảm ứng đạo giao khó nghĩ bàn
		
		Phu 
		nhân Xá-ma nói: “Dầu 
		Đại vương sanh lòng bất thiện với thiếp, nhưng do bi nguyện nên thiếp 
		không bị tổn hại”. Kinh
		
		Lăng nghiêm thì nói “Một 
		là, do con không tự quán các tướng mà quán cái tâm năng quán, khiến cho 
		chúng sinh khổ não trong mười phương quán âm thanh con, liền được giải 
		thoát. Hai là, do con xoay tri kiến trở lại, khiến cho các chúng sinh 
		vào trong lửa lớn, lửa không thể đốt cháy. Ba là, do con quán cái nghe 
		xoay trở lại, khiến cho các chúng sinh bị nước lớn cuốn đi mà không chết 
		chìm. Bốn là, do con diệt hết các vọng tưởng, tâm không sát hại, khiến 
		cho các chúng sinh vào các nước qủy, quỷ không thể hại được…”. Do 
		năng lực tu hành như thế mà tự lực tha lực cảm ứng bày hiện lẫn nhau. 
		Nếu bản thân có bi ngưỡng, nghĩa là phần tự lực đã thông được với bi từ 
		của Quán Thế Âm thì không nạn tai nào có thể xâm hại, nếu có chỉ do bi 
		nguyện, không thể nghĩ bàn. Nếu năng lực tu hành chưa đủ thì như Thiền 
		sư Hàm Thị nói “hoàn toàn phải nhờ vào việc xưng danh hiệu”. Do việc trì 
		niệm ấy mà cảm được lực gia trì của Quán Thế Âm. Thành tuy nói tha lực 
		mà thực vẫn cần vào tự lực trì danh, mọi thứ mới ứng hiện.
		
		Nhờ 
		niệm Phật mà với chư Phật thì nhận được từ lực, với chúng sinh hữu duyên 
		đương nhiên cũng trao được từ lực. 
		
		Giới 
		nếu giữ kỹ thì có thể dùng đó hồi hướng cho kẻ hữu duyên đồng giữ giới. 
		Giới giữ  được thì các nạn tai như bệnh tật, chết yểu, nạn tai, thiên 
		tai, cướp giật, quan tham v.v… đều không động được đến thân.   
		
		
		Cho 
		nên, niệm Quán Thế Âm mà niệm lại tự tánh của chính mình, tức vào chánh 
		định là từ văn, tư, tu, rồi năng văn và sở văn đều dứt, tiến lên năng 
		giác sở giác đều không, và rốt sau là năng không sở không đều diệt, bản 
		tánh tịch diệt hiện tiền, thì bi từ hiển hiện, ba mươi hai ứng hóa thân 
		do chỗ cảm của chúng sinh tự nhiên ứng hiện, chẳng phải thật có thân nào9.
		
		
		Nếu 
		có thể nhất tâm trì danh Quán Thế  Âm thì chẳng phải đợi vãng sinh mới 
		có Cực Lạc. Ngay thế gian này đã có thể thoát khỏi nạn tai, là hiện thực 
		an vui của chúng sinh. Quan trọng là, y đó chúng ta luôn thấy vững tin 
		với cuộc sống đầy tai ương hoạn nạn này, là lý do thứ hai khiến chúng ta 
		nên niệm Phật nếu không tu thiền. 
		
		 
		
		
		
		                         
		 
		 
		
		1 Kinh
		
		Pháp hoa - phẩm Phổ môn – HT Trí Tịnh dịch. 
		
		2 Bí 
		mật của luật hấp dẫn.
		
		https://www.youtube.com/watch?v=nTDoBRhMZX8&feature=player_embedded
		
		3
		
		Hoa nghiêm thám huyền ký - Tổ Pháp Tạng.
		
		Tự điển Phật học Huệ Quang thì ghi: “Nhiếp 
		Đại thừa luận thích quyển 5 do ngài Huyền Trang dịch (Đại 31, 408 
		Trung) ghi: “Lại có bốn thứ ý thú, bốn thứ bí mật có công năng quyết 
		đoán tất cả lời Phật”.  
		
		4
		
		Hoa nghiêm thám huyền ký – Tổ Pháp Tạng.  
		
		5 
		Luận Đại thừa khởi tín 
		- Tổ Mã Minh. 
		
		6
		
		Pháp bào đàn kinh – HT. Thanh Từ dịch và giải.
		
		7 Kinh
		
		Đại Bửu Tích quyển 6 - phẩm
		
		Pháp hội Ưu-đà-diên. HT. Trí Tịnh dịch. 
		
		8 Kinh
		
		Thủ lăng nghiêm trực chỉ quyển 6 – chương
		
		Do nhĩ căn chứng viên thông - Thiền sư Hàm Thị trực giải, TT. 
		Thích Phước Hảo dịch.     
		
		9 Kinh
		
		Thủ lăng nghiêm trực chỉ quyển 6 – chương
		
		Do nhĩ căn chứng viên thông - tiết 2:
		
		Vâng lời dạy mà thành tựu chứng ngộ -  Thiền sư Hàm Thị trực giải. 
		TT. Thích Phước Hảo dịch.