1.
Thực trạng đời sống xã hội: khoa học kỹ thuật phát triển nhưng đời sống
đạo đức lại bị khủng hoảng, tâm linh có nhiều biến tướng lệch lạc:
Trong
mấy mươi năm trở lại đây, thế giới chúng ta đã chứng kiến những bước
tiến bộ phi thường về khoa học kỹ thuật, từ đó đã có những ảnh hưởng sâu
sắc đến đời sống xã hội, một phần thúc đẩy sự phát triển của xã hội
theo hướng tích cực, nhưng một phần khác cũng tạo nên những khủng hoảng
về môi trường sinh thái, đạo đức, đời sống tâm linh, hoài nghi các giá
trị truyền thống được đúc kết hàng ngàn năm trước.
Thử
nhìn lại những tiện nghi trong đời sống hàng ngày ứng dụng từ những
phát triển của khoa học kỹ thuật mà mỗi chúng ta được thụ hưởng. Với các
phương tiện như truyền hình vệ tinh, mạng lưới internet toàn cầu, điện
thoại vệ tinh, đi lại dễ dàng bằng đường hàng không, v.v…, khái niệm
khoảng cách địa lý như trước nay không còn là vấn đề khó khăn. Mở mạng,
bật ti-vi…, chúng ta có thể thấy cảm nhận được một cách khá sinh động
cuộc chiến ở Libya, hàng đêm chúng ta có thể hoà nhịp đam mê của hàng
triệu trái tim yêu thích trái bóng tròn qua những trận đấu đầy kịch tính
và luôn ẩn sự bất ngờ ở các giải bóng đá ngoại hạng Anh, Cup C1…
“Hễ
khi con bướm vỗ cánh ở bên này đại dương thì bên kia đại dương dậy
sóng”, điển tích văn chương – tư tưởng này không còn là khái niệm từ
chương ngủ yên trong cổ thư, mà trở nên câu nói cửa miệng của nhiều
người, với cảm xúc mỗi khi cảm nhận sự thay đổi của thế giới. Diễn biến
mới ở Iraq không phải là vấn đề của Iraq nữa, mà có thể ảnh hưởng rất
trực tiếp đến giá cả thị trường ở nước ta, có thể làm tăng giá gạo, giá
các mặt hàng nhu yếu phẩm, vật dụng thường ngày của mỗi người, vì xăng
dầu tăng giá. Thế giới dường như trở nên rất nhạy cảm với cách loan tin
“thần thông biến hoá”, dường như tức thời. Vậy nên, điều tốt chắc chắn
cũng có cơ hội lan truyền nhanh như điều xấu. Một sự thật, nếu không
được cân nhắc sự lợi mình, lợi người và lợi cho sự phát triển của môi
trường xã hội, nói cách khác, không hiền thiện, sẽ có những tác động
tiêu cực, huỷ hoại các giá trị đời sống được quy ước từ hàng chục, thậm
chí hàng trăm năm trước, tạo nên những khủng hoảng trầm trọng, những phá
hoại để lại hậu quả khôn lường. Chẳng hạn như vụ việc Wiki Leaks ngấm
ngầm thu thập và đã công bố một phần những thông tin bí mật ngoại giao
ngầm của các cường quốc, phơi bày trước sự thật bất chấp lợi hại, gây
nên sự mất ổn định xã hội, khủng hoảng xã hội trầm trọng.
Với
tình hình trong nước, báo chí cũng như các nhà chức năng về giáo dục và
văn hoá đã nhiều lần lên tiếng cảnh báo về sự xuống cấp của đời sống
đạo đức, tâm linh, sự khủng hoảng lối sống dẫn đến những lệch lạc thái
quá trong một bộ phận giới trẻ - thế hệ tương lai của đất nước.
Một
bộ phận khác tìm đến với tôn giáo, trong đó có Phật giáo, tôn giáo
truyền thống gắn bó hai ngàn năm với dân tộc, nhưng phải thừa nhận thực
tế có không ít người đến chùa, đến với đạo nhưng chưa có nhận thức tối
thiểu về Phật pháp, về những giáo lý cơ bản như Nhân quả, Nghiệp báo,
Duyên khởi – Vô ngã… Do đó, cũng có không ít người tin Phật như tin một
vị thần hộ mạng, đến chùa vì mưu cầu sự ban ơn ban phước, vướn nhiều hủ
tục mê tín dị đoan, chứ không phải tìm đến với một phương pháp thực
nghiệm tâm linh, rèn tâm tu tính, tập sống theo lối hiền đẹp trong chiều
hướng xả bỏ tham lam, sân hận và si mê, vô ngã vị tha, an vui, vừa đủ…
như Đức Phật và chư Tổ đã dạy, đã dày công hoằng pháp qua các giai đoạn
lịch sử, các bối cảnh đời sống xã hội khác nhau.
Trước
các hiện tượng tiêu cực của đời sống xã hội hiện nay, ở nước ta cũng
như thế giới, các nhà xã hội học đã “chẩn bệnh”, rằng xã hội đang lâm
vào những khủng hoảng trầm trọng, đang mang trên mình những bệnh tật
trầm kha như hội chứng “sự tha hoá của cái tôi”, không tin nhân quả, hội
chứng vô cảm với khổ đau của tha nhân, lòng tham và dục vọng bị kích
thích thái quá nên đưa đến nạn tham nhũng, bóc lột và lộng hành tồn tại
một cách tinh vi…, những hiện tượng những tưởng sẽ không còn trong một
xã hội thời hiện đại.
Là
một tôn giáo, một triết lý sống, một hệ thống tư tưởng sinh động gắn bó
mật thiết với dân tộc từ đầu kỷ nguyên Tây lịch cho đến nay, qua bao
thăng trầm nhưng mối tương quan hoà quyện đó vẫn không thay đổi, đi vào
đời sống tạo nên những giá trị hiền đẹp mang tính mẫu mực trong ứng xử
xã hội, trước thực trạng hôm nay, Phật giáo chúng ta phải làm gì, hay
nói cách khác, ngành Hoằng pháp của chúng ta phải có giải pháp cụ thể
nào để quảng diễn giáo lý Phật đà, giới thiệu những triết lý sống hiền
đẹp được đúc kết đến với đa số quần chúng, đến với số đông nhân dân,
giới trẻ tìm đến với chùa chiền, tìm đến qua các lễ hội và trong đời
sống hàng ngày, để họ có những hiểu biết cơ bản về Phật pháp, về giáo lý
Duyên sinh – Vô ngã – Vị tha, nhận rõ tâm thức, “bản lai diện mục” của
chính mình, để thanh lọc tham sân si, từng bước xây dựng chánh tín Tam
Bảo, làm lành lánh dữ, tự làm trong sạch tâm ý bằng các pháp môn thiền
định, dấn thân tích cực vào các hoạt động xã hội lợi đạo ích đời, chung
sức chung lòng xây dựng đời sống văn minh, hiền thiện.
2.
Tinh tấn tự tu và giới thiệu kinh nghiệm tu tập, sửa đổi tâm ý một cách
căn bản cho mọi người, đó là một trong những giải pháp căn bản cho các
khủng hoảng đạo đức, tâm linh; xây dựng nếp sống hiền đẹp theo hướng tư
duy vô ngã:
Chúng
ta, những người con Phật xuất gia và tại gia hãy nương vào tất
cả nhân duyên có được để học, hành theo giáo lý Phật dạy, chư Tổ đã
truyền, tuỳ theo căn cơ và duyên lành mà mình gặp.
Giáo
Pháp của Đức Phật được nói ra từ tuệ giác, qua thời gian, giá trị ứng
dụng của Phật pháp càng được chứng minh là siêu vượt thời gian và không
gian.
Nhìn
sang thế giới phương Tây, chúng ta thấy Phật pháp được ứng dụng một
cách rộng rãi, nhiều nơi xem đó là phương pháp trị liệu các hội chứng
bệnh lý thời đại có căn nguyên của tư duy hữu ngã, lấy tự ngã làm trung
tâm, xem trọng cái tôi, lệ thuộc cái của tôi, đi đến sự tham lam và
hưởng thụ thái quá, làm mất cân bằng đời sống sinh thái và đánh mất cơ
hội sống hạnh phúc giữa đời này. Giáo lý Phật giáo được các nhà khoa
học, các nhà xã hội học xác nhận là giáo lý của hoà bình, là lối sống
phi giáo điều, khác với các giáo điều của các tôn giáo Tây phương. Nhà
bác học Albert Einstein đã từng khẳng định: “Tôn giáo của tương lai sẽ
là một tôn giáo vũ trụ. Tôn giáo ấy phải vươt lên Thượng đế của cá nhân
và tránh giáo điều cùng lý thuyết thần học. Bao trùm cả tự nhiên và tâm
linh, nó phải được căn cứ trên cảm nhận phát sinh từ kinh nghiệm của tất
cả mọi thứ tự nhiên và tâm linh như một sự hợp nhất đầy đủ ý nghĩa. Đạo
Phật trả lời cho những sự mô tả này. Nếu có một tôn giáo mà có thể
đương đầu với những nhu cầu của khoa học hiện đại đấy sẽ là Đạo Phật.”
Nhắc lại lời của nhà bác học nổi tiếng này để làm gì? Không phải để tự
hào, mà để một lần nữa, chúng ta nhận thức sâu sắc hơn giá trị của Phật
pháp, sự linh diệu và tiềm năng bất khả tư nghì của Phật pháp, tính hiện
đại và khả năng thích ứng với bất kỳ bối cảnh xã hội, đối mặt với bất
cứ một thách thức khó khăn nào. Điều còn lại là gì? Đó là trách nhiệm
của chúng ta, của những người làm công tác hoằng pháp, làm thế nào để có
thể giới thiệu lời dạy – những phương pháp tu tập vô cùng phong phú
được kết tập trong Ba tạng Kinh, Luật, Luận; làm thế nào để kế thừa ngọn
đèn Chánh pháp, tiếp nối để ánh sáng của ngọn đèn ấy được toả sáng
trong thời đại, trong bối cảnh xã hội mà chúng ta đang sống? Chúng ta
cần phải nghiên cứu và trầm tư về những đặc điểm của xã hội hiện đại
trên cơ sở những thăm dò, phân tích; từ thực trạng của xã hội này, vận
dụng phương pháp, cách diễn đạt, cập nhật các phương tiện giao tiếp mới
để chuyển tải nội dung Phật pháp đến với đại đa số quần chúng, góp phần
điều chỉnh nhận thức sai lệch, cực đoan; sửa chửa những nhầm lẩn định
hướng hành vi, lời nói của con người theo hướng tích cực, hiền đẹp, Phật
hoá nhân gian.
Điều
cốt tủy làm nên phần hồn của một bài thuyết giảng Phật pháp là kinh
nghiệm thực hành, những suy tư, nghiền ngẫm lời Phật, lời dạy của chư Tổ
trong đời sống hàng ngày, trong những suy nghĩ rất bình thường của mỗi
chúng ta. Nếu không có điều đó, bài thuyết giảng dù có hay đến đâu cũng
chỉ bóng bẩy về mặt ngôn từ, khó có thể tác động đến tận tâm thức, làm
thức tỉnh thính chúng.
Kinh
nghiệm tu học, cùng với những suy ngẫm qua cuộc sống sinh động thường
nhật chính là cốt tủy, là phần hồn, cùng với các kỹ năng trước công
chúng và kiến thức xã hội mới làm nên bản lĩnh của một vị giảng sư,
hoằng pháp. Đó là chất liệu cho sự thành công của các thời thuyết giảng.
Kinh
nghiệm tự thân chúng tôi về điều này rất cụ thể. Qua kinh nghiệm tự
thân, mà cũng để thể hiện tính khế cơ, khế lý, phù hợp thời
duyên… từ ngày GHPGVN được thành lập, những khi phụ trách các
lớp giáo lý tại các đạo tràng, ngay từ buổi đầu nhằm giúp
cho các Phật tử, các hội chúng dễ theo dõi, cụ thể hóa trong
việc tu học, tôi thường chọn các bản kinh do đức Phật, các Tổ
sư dạy với những bản dịch dễ hiểu… đọc nguyên văn và nương theo
giảng dạy từng phẩm, từng câu, từng lời. Tất cả kinh điển Phật
dạy, lời của chư Tổ, như câu nói quen thuộc với tất cả chúng ta, mênh
mông như nước trong bốn bể, nhưng cùng một vị mặn, cũng vậy, Phật pháp
tuy phong phú nhưng chỉ có một vị: đó là vị giải thoát. Giải thoát con
người khỏi những ràng buộc theo hướng tư duy hữu ngã, để sống giải thoát
trong tinh thần vô ngã, tự tại trong mọi ràng buộc thế gian.
Với
tinh thần đó, tôi đã mạnh dạn và làm việc một cách đầy Pháp lạc giảng
cho nhiều tầng lớp thính chúng về các bộ kinh lớn như Đại Bát Niết Bàn,
Lục Tổ Đàn Kinh, Ma ha Bát Nhã Ba La Mật…v.v, Kinh Tạng Nikaya, Kinh
Tạng A Hàm…v.v, từ năm này qua năm khác, càng bám sát kinh văn, nghiền
ngẫm và thực tập theo lời giáo huấn căn bản của đức Phật, chư Bồ
tát và Tổ sư để điều phục tâm xấu, phát triển tâm lành, bản thân
chúng tôi càng đọc kinh, càng suy gẫm, càng thẩm thấu… qua mỗi
buổi giảng nghe lòng thêm an lạc thanh thản.
Phật
pháp không phải là tri thức thông thường, mà tất cả, tùy duyên, tùy đối
tượng, những gì Phật dạy đều là pháp tu, là cách để thanh lọc các tâm
tham, sân, nhuế, giảm đi sự chấp chặt vào cái tôi, cái của tôi và sự lệ
thuộc các điều kiện sống chung quanh, để lòng luôn an lạc, thảnh thơi,
sống hiền đẹp ngay ở đời này, bây giờ và tại đây.
Với
những gì đã nói, Giáo lý Phật giáo có khả năng chữa trị những bệnh lý
về tâm của cá nhân, điều chỉnh và là giải pháp căn bản cho các khủng
hoảng xã hội, góp phần xây dựng nền tảng đạo đức, tâm linh không phải
với sự hứa hẹn trong tương lai như thường thấy ở một số tôn giáo thần
quyền khác, mà bằng sự tự thanh lọc, điều chỉnh suy nghĩ, lời nói và
hành vi theo hướng tư duy vô ngã, xây dựng nếp sống hiền đẹp, lợi mình
lợi người.
3. Một số đề nghị với ngành hoằng pháp để công tác hoằng pháp thực sự có hiệu quả trong bối cảnh xã hội VN hiện tại:
Trong
tương quan của thế giới thời hiện đại, mọi quốc gia đều chịu những tác
động chung, ảnh hưởng cả hai mặt tích cực và tiêu cực, thậm chí có những
khủng hoảng giữa truyền thống và tính toàn cầu…
Đất
nước chúng ta là một đất nước đang phát triển, nghèo, kinh tế đa số dựa
vào nông nghiệp. Tính truyền thống và bảo thủ là những đặc điểm bao phủ
lên mọi ứng xử văn hóa, xã hội. Tuy nhiên, trên lộ trình gia nhập Tổ
Chức Thương Mại Thế Giới (WTO), chúng ta đã mở cửa từng bước. Khoa
học kỹ thuật, đặc biệt là mạng internet đã tràn vào và khuấy động cả xã
hội. Cùng với những đợt sóng thương mại, văn hóa Tây phương kích thích
nhu cầu tiêu thụ, sự hưởng thụ theo con đường giao lưu văn hóa, nghệ
thuật… đã làm nẩy sinh nhiều vấn đề về đạo đức, tâm linh… Trong thời
gian qua, giới chuyên môn, truyền thông báo chí đã cảnh báo hiện tượng
suy thoái đạo đức, nền tảng đạo đức truyền thống có dấu hiệu lung lay,
không đứng vững trước các làn sóng hiện đại. Các trào lưu hiện đại dù cố
gắng nhưng vẫn chưa tạo được sự ổn định và đồng thuận của xã hội, vẫn
chưa có chỗ đứng vững vàng, chưa thực sự có khả năng thay thế giá trị
truyền thống.
Do
đó, sau sự kiện thay đổi của các nước Xã Hội Chủ Nghĩa ở Đông Âu,
Liên Xô, lãnh đạo đất nước đã nhận thức lại và đã có những chính sách
rất tích cực về tôn giáo, về sự đóng góp của các tôn giáo trong sự
nghiệp xây dựng nền tảng đạo đức, văn hóa hiện đại. Đó là cách để giữ
gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Gần
đây, chính sách ấy lại một lần nữa được xác nhận qua các văn kiện quan
trọng định hướng xây dựng đất nước trong giai đoạn tới. Tôn giáo được
khuyến khích hình thức tôn giáo xã hội, tham gia tích cực vào các hoạt
động giáo dục, y tế, từ thiện xã hội và truyền thông. Như vậy, về mặt
tổng thể phát triển xã hội đã có những định hướng rất thực
tế, Phật giáo chúng ta lại có kinh nghiệm và truyền thống gắn bó mật
thiết, đồng cam cộng khổ, hòa quyện với dân tộc như sự hòa quyện của
nước với sữa trên dưới 2000 năm qua. Xã hội lại lên tiếng, trông chờ
vào Phật giáo, những người con Phật chân chính, trong đó có ngành
Hoằng pháp chúng ta, một trong những ngành mũi nhọn của Giáo hội phải
làm gì để đóng góp nhiều hơn nữa vào sự nghiệp xây dựng nền tảng đạo đức
hiền đẹp, nơi nương tựa tâm linh hướng thượng, vô ngã vị tha, phù hợp
với truyền thống và dung hòa tính hiện đại, giữ được bản sắc dân tộc để
vững vàng trên lộ trình hội nhập thế giới, hòa đồng mà không bị hòa tan.
Hằng
năm, ngành Hoằng pháp toàn quốc chúng ta ngồi lại với nhau, qua nhiều
chủ đề được đặt ra, cùng thảo luận để tìm ra những giải pháp cụ thể nhằm
làm tốt hơn nữa Phật sự quan trọng mà Giáo hội đã giao phó, Tăng Ni
Phật tử tin tưởng, xã hội trông chờ.
Cá nhân chúng tôi, qua quan sát và nghiền ngẫm, có mấy đề nghị sau:
3.1.
Trong thời gian qua, ngành Hoằng pháp đã có rất nhiều hoạt động, đã xây
dựng nhiều đạo tràng, phát triển các chương trình giảng dạy giáo lý
hàng tuần, định kỳ cho Phật tử. Nhìn vào báo cáo của Ban, thành tựu đó
quả là vô lượng công đức và vô cùng trân trọng tán thán. Tuy nhiên,
chúng ta thực sự chưa bắt nhịp với khoa học kỹ thuật, chưa vận dụng các
phương tiện truyền thông có ảnh hưởng sâu sắc đến mọi nơi, mọi vùng như
phát thanh, mạng internet, các phương tiện giảng dạy trên mạng.
Việc
đó lâu nay vẫn có người làm, nhưng thường đơn lẻ, không phải là chủ
trương cũng như là việc của toàn ngành, là mô hình cần thực hiện và có
sự phân công, giám sát thực hiện. Điều đó được các tổ chức truyền giáo ở
các tôn giáo khác thực hiện rất tốt và hiệu quả.
Chúng
ta cần có một đề án về Phật sự này, để không bỏ qua một phương tiện rất
tiện ích và có tiềm năng rất lớn nhưng chi phí lại thấp, bổ sung làm
phương tiện hoằng pháp cho thời đại hôm nay, đáp ứng yêu cầu của đông
đảo Phật tử, những người muốn học Phật, tu theo Phật.
3.2.
Ban Hoằng pháp nên có ký kết thỏa thuận với các ban ngành khác của Giáo
hội, ví dụ: Ký kết Phật sự với Ban Từ Thiện để kết hợp Phật sự tốt đẹp
hơn, vừa chăm sóc về đời sống vật chất vừa chăm sóc về đời sống tâm linh
cho người nghèo khó, người gặp hoạn nạn cần giúp đỡ; hoặc liên kết
với Ban Hướng Dẫn Phật Tử để phân định trách nhiệm hoằng hóa
và chăm sóc tinh thần tu học cho hàng Phật tử tại gia.
Ban
Hoằng pháp có thể “đặt hàng” với Viện Nghiên cứu Phật học VN cho những
chương trình dịch kinh điển phổ thông, các bài giáo lý phổ thông ra
tiếng một số dân tộc; làm việc với các Học viện Phật giáo đào tạo chuyên
khoa, hoặc bổ sung ngành học về Hoằng pháp, bao gồm cả ngôn ngữ các
dân tộc… và một số mặt liên hệ khác để kiện toàn về nhân sự cho
Phật sự lâu dài.
3.3.
Như đã nói, kinh nghiệm tu tập của các giảng sư, các hoằng pháp viên là
cốt tủy, là linh hồn cho sự thành công của các thời thuyết giảng. Vậy
nên chăng, chúng ta cần có một cơ sở, hoặc ấn định một số cơ sở, theo
vùng chẳng hạn. Hằng năm dành một thời gian nhất định để quy tụ
các vị giảng sư, trước hết tu tập tăng cường đạo lực, thứ nữa trao đổi
những kinh nghiệm về chuyên môn, thông báo cho nhau những tình huống
mới cần có giải pháp vượt qua khó khăn, những mục tiêu Phật sự cần hoàn
thành, những nơi cần hỗ trợ…
Trước mắt như thế. Những Phật sự khác sẽ có điều chỉnh khi tiếp xúc với thực tế.
Chúng
ta cần xem lại những kinh nghiệm hoằng pháp của các tổ chức Phật giáo,
cũng như kỹ năng của một số tổ chức truyền giáo của các tôn giáo bạn, để
làm sao rút ra cho được những kinh nghiệm, đúc kết thành giải pháp hoàn
chỉnh để phổ biến rộng rãi cho tất cả giảng sư, các hoằng pháp viên.
Việc
chúng ta ngồi lại với nhau trong tinh thần hòa hợp, thống nhất đã là
một điều đáng ca ngợi. Ngồi lại để cùng thảo luận, tìm ra những giải
pháp cho Phật sự hoằng pháp ngày càng hiệu quả hơn, để thông điệp trí
tuệ, đạo đức, từ bi của Đức Phật lan xa, để mối tương quan Đạo Pháp –
Dân Tộc thêm mật thiết là một việc làm ngàn lần cao quý, đáng trân
trọng, ca ngợi và tôn kính .
Với
tinh thần trên, mong rằng Hội thảo chúng ta sẽ có những câu trả lời rất
cụ thể, từ đó sẽ có các chương trình hoạt động sâu sắc hơn khắp trên ba
miền đất nước sau khi Hội thảo này kết thúc.
Tham luận tại Đại hội Hoằng Pháp 2011 tại Bình Dương
HT. Thích Giác Toàn
Phó Chủ tịch HĐTS GHPGVN
Thành viên Chứng minh Ban Hoằng Pháp TW