Trên
mạng lưới Internet, nhiều người phổ biến rộng rãi một đoạn phim ngắn vũ
khúc ngàn tay ngàn mắt, do các nghệ nhân câm điếc biểu diễn rất công
phu điêu luyện. Hình ảnh đẹp của những nghệ nhân khuyết tật, múa theo
mẫu pho tượng Bồ Tát Thiên Thủ Thiên Nhãn, một biểu tượng tuyệt vời về
tư tưởng Từ Bi và Trí Tuệ của đạo Phật.
Ngoài những đường nét tinh tế điêu luyện, họ thể hiện tuyệt đỉnh của nghệ thuật Đông Nam Á, bằng con tim (tâm) và khối óc (ý),
vì họ hoàn toàn không nghe được âm thanh của tiếng nhạc. Tuy họ bất
hạnh, nhưng khi biểu diễn, gương mặt các nghệ nhân khuyết tật nầy toát
ra sự bình an từ nội tâm trong ánh hào quang của Bồ Tát Thiên Thủ Thiên
Nhãn.
Hình ảnh tôn tượng Bồ Tát Thiên Thủ Thiên Nhãn mỗi bàn tay đều có con
mắt trí tuệ,
trong tay cầm nhiều pháp khí dùng hàng phục ma chướng, những cánh tay
cầm kiếm, búa, tràng hoa, châu báu, vải lụa gấm vóc, hoa sen, bánh xe
pháp, bình tịnh thủy, chày kim cang.. cũng tượng trưng cho mọi ngành
nghề trong cuộc sống trên thế gian này.
Ý
nghĩa tượng trưng vị bồ tát có đầy đủ năng lực khắc chế sự trói buộc
của mọi cảnh trần (sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp), không khuất phục
mọi quyền lực ngoại đạo tà giáo, tuyệt đối bình đẳng trong khi cứu độ
chúng sanh, biểu trưng công đức và phước đức siêu việt. Mọi người sanh
ra đều có sáu cơ quan là
mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý. Kinh sách gọi là
lục căn.
Khi
sống trên đời, con người tiếp xúc hàng ngày với cảnh trần. Mắt thấy sắc
(các vật có hình tướng). Tai nghe tiếng (âm thinh, lời nói). Mũi ngửi
mùi hương. Lưỡi nếm vị. Thân xúc chạm. Ý nghĩ duyên theo pháp trần. Kinh
sách gọi chung sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp là lục trần.
Trong cuộc sống hàng ngày, khi tiếp xúc với trần cảnh như vậy, tâm con người hay phê phán:
đẹp hay xấu (mắt), dễ nghe hay khó nghe (tai), dễ ngửi hay khó ngửi
(mũi), ngon hay dở (lưỡi), mịn màng hay thô nhám (thân), thương hay ghét
(ý). Những sự phê phán trong tâm thức như vậy, kinh sách gọi chung là lục thức.
Người đời thường do lục căn dính mắc với lục trần sanh ra lục thức,
và bắt đầu tạo nghiệp, thường là nghiệp chẳng lành. Người tu muốn phát
sanh trí tuệ phải nhận rõ nguyên nhân bị cuốn vào sanh tử luân hồi là do
sự dính mắc.
- Nếu mắt thấy sắc, tâm không phê phán đẹp xấu, khỏi bị trói buộc.
- Nếu tai nghe tiếng, tâm không phê phán, khỏi bị não phiền.
- Nếu mũi ngửi mùi, tâm không phê phán, khỏi bị bực mình.
- Nếu lưỡi nếm vị, tâm không phê phán, khỏi tạo nghiệp chướng.
- Nếu thân xúc chạm, tâm không phê phán, khỏi bị tham đắm.
- Nếu ý nhớ tưởng, tâm không phê phán, khỏi khởi sân hận, hay luyến tiếc, nhớ thương.
Tâm không phê phán nghĩa là không dính mắc, không nhiều chuyện, không chạy theo sự suy nghĩ sanh diệt, chứ không phải không nhận thức rõ đẹp xấu, đúng sai, ngon dở.
Thiền sư Bá Trượng Hoài Hải có dạy:
"Tâm và cảnh không dính nhau là giải thoát".
Trong
cuộc sống, chúng ta vẫn thấy, vẫn nghe, vẫn hiểu, vẫn biết tất cả các
cảnh trên trần đời, nếu tâm không dính mắc, không tham đắm, thì không
phiền não. Không phiền não tức là giải thoát.
Hành
Bồ Tát đạo là con đường nhập thế của người tu, 84 ngàn pháp môn diệt
trừ phiền não tự thân và muôn ngàn phương cách đưa giáo lý đạo Phật giúp
người cùng tu giải thoát. Con người trải qua trăm ngàn kiếp tái sanh
luân hồi trong thập loại chúng sinh, tâm còn nhiều chánh tà lẫn lộn, tốt
có, xấu cũng có.
Khi
được thân người, thiện duyên kỳ ngộ với Phật Pháp, con người phát tâm
tu muốn trở về Thật tánh chân như của mình, trước hết phải tẩy trừ
nghiệp chướng sâu dầy nơi thân khẩu ý. Kinh sách dạy 48 ngàn pháp môn
trừ sạch phiền não ma, phiền não chướng, chính là ngàn tay cầm pháp khí trừ ma, ngàn mắt trí tuệ sáng suốt xóa trừ vô minh.
Con đường cứu cánh của Bồ Tát là sự kiên định, ý chí bền vững để giác ngộ được khổ, không, vô ngã, vô thường trong Thật tánh của mỗi người. Để đạt được tâm thiền định và ý chí bền vững, cần áp dụng pháp tu quán Tứ Niệm Xứ, gồm có: thân, thọ, tâm, pháp.
Niệm thân: Quán thân bất tịnh.
Biết rõ thân là bất tịnh, nhiều phiền lụy, không trau chuốt theo nhu
cầu đòi hỏi của thân, tu thân đoan chính trang nghiêm, đơn giản.
Niệm thọ: Quán thọ thị khổ. Thọ nhận nhiều thì khổ nhiều. Không thọ vui buồn sướng khổ, không tham đắm quyền lợi vật chất, biết tri túc sống thanh bần, đạt được an lạc trong đời sống.
Niệm tâm: Quán tâm vô thường.
Tâm con người nay thương mai ghét, nay tốt mai xấu. Hoặc ngược lại. Do
đó, khi có hạnh phúc không vui quá, khi gặp khổ nạn không than trách.
Không tự tôn, chẳng tự ti, thì tâm tự tại.
Niệm pháp: Quán pháp vô ngã.
Mọi sự việc xảy ra trên đời đều do nhiều nguyên nhân, nguyên do, xa và
gần, không có một nguyên nhân đơn độc gây ra sự việc, nên gọi là vô ngã.
Thấy được, hiểu được như vậy, tâm không còn phiền não.
Chúng
sanh lăn lộn đầu thai trong lục đạo sanh tử luân hồi do nhiều căn bịnh
từ vô minh ngàn kiếp, gồm: tham ái, dục vọng, chấp thủ, đoạn kiến,
thường kiến, ngã mạn. Sự chân thật của Thật Tánh là người tu theo con
đường Đức Phật dạy, đạt được tâm thanh tịnh, đầy đủ trí tuệ, có thể chuyển phàm phu trở thành thánh nhân hay bồ tát.
Đức
Phật Thích Ca chứng đắc tam minh: Thiên nhãn minh, Túc mạng minh, Lậu
tận minh. Mắt trí tuệ của Ngài thấy được tam thiên đại thiên thế giới,
thấy nhân quả trong nhiều đời nhiều kiếp, phá vô minh phiền não chấp ngã
chấp pháp không còn sanh tử, ra khỏi lục đạo luân hồi. Lục đạo là sáu
cảnh giới luân hồi mà con người phải đầu thai chuyển kiếp, nếu chưa sạch
hết nghiệp chướng, gồm: Thiên, nhơn, a tu la, địa ngục, ngạ quỉ, súc sinh.
Cõi Thiên:
Sanh về cõi thiên, nơi cực lạc thế gian, hưởng phước báo thiện căn
nhiều đời, được giàu sang, đủ ăn đủ mặc, có người hầu hạ, nhà cao cửa
rộng, an lạc hạnh phúc.
Cõi Nhơn:
Sanh vào cõi người, giàu có nghèo có, ưa thích làm việc phước thiện,
cũng có khi tạo nghiệp bất thiện, hưởng phước báo và cũng chịu quả báo
đau khổ, sanh, lão, bịnh tử.
Cõi A Tu La:
Sanh vào nhà quyền quí, hưởng phước tốt của gia đình, có danh tiếng, có
tiền của, tánh tình nóng nảy và kiêu mạn, thích bạo động, có trí thức
đời và thông minh, không khéo dễ tạo nghiệp ác.
Cõi Địa Ngục: Sanh
vào cõi đau khổ, vì nghiệp ác hại người sâu nặng, bị hành hạ tra tấn
ngày đêm, sống không được chết không xong, đau khổ vô cùng.
Cõi Ngạ Quỉ:
Sanh vào nơi bất tịnh, vì nghiệp bỏn sẻn, thường bị hãm hại, không chỗ
dung thân, luôn đói khát, không có sức tự kiếm ăn, sống nhờ vào lòng tốt
của mọi người.
Cõi Súc Sanh:
Sanh vào nơi cầm thú, vì nghiệp sát quá nặng mà đọa vào cõi nầy, lúc
nào cũng sợ bị giết, sống nơi ẩm thấp rừng sâu nước độc, mang lông đội
sừng suốt kiếp.
Phật dạy: Rời
xa kiến chấp, an lạc niết bàn, hàng phục ma chướng, chứng đắc trí tuệ
sáng suốt, thoát ra khỏi lục đạo luân hồi, vượt khỏi giả danh, không còn
chỗ thọ của bản ngã, không bị ràng buộc các pháp ác của tà ma ngoại
đạo. Đó là chỗ nhận biết của người trí tuệ và là chỗ cư trú các bậc
thánh, các bồ tát, các bậc giác ngộ.
(Kinh Duy Ma Cật)
TỪ BI (PHƯỚC ĐỨC) CỦA BỒ TÁT
THIÊN THỦ THIÊN NHẢN
Xuất
gia hay tại gia được các vị Tôn túc hay Sư phụ thường khuyến khích thọ
bồ tát giới, vì đó là gieo căn lành cho người tu chuyển hóa phàm phu
thành bồ tát. Nghĩa là nhiều đời nhiều kiếp, bằng trí tuệ sáng suốt,
hạnh nguyện một vị Bồ Tát trong dân gian có thể cứu khổ cùng một lúc
hàng trăm, hàng ngàn người, hoặc nhiều hơn nữa, mà không làm tổn hại bản
thân hay một ai khác.
Những
Bồ Tát sống trong nhân gian có rất nhiều hình tướng, tùy cơ nghi xiển
dương chánh pháp, hóa độ chúng sanh, diệt ác sanh thiện, cứu khổ ban
vui.
Với
tâm Bồ Tát con người có thể khuyên nhủ vấn đề nan giải trong gia đình,
bức xúc trong tình cảm, nỗi tuyệt vọng bị áp bức, bất công, xung đột,
tranh chấp. Thiền môn cũng là nơi người Phật tử trở về nương tựa, tịnh
tu, gởi gắm niềm tin hy vọng và tìm được những phương pháp xoa dịu nỗi
đau tâm linh, giải quyết đau khổ mà họ đang gánh chịu.
Uy
đức thiện lành từ các vị chân tu thật học, phước trí trang nghiêm có
biện tài thuyết phục nhân vật quyền thế, kêu gọi hòa bình, hòa giải
chiến tranh. Đó là trí lực nhiệm mầu của Bồ Tát Thiên Thủ Thiên Nhãn
trong nhân gian, đã cứu được hàng ngàn, hàng vạn sanh linh trong biển
lửa đao binh. Tâm nguyện của người tu hành:
Thượng cầu Phật đạo,
hạ hóa chúng sanh.
*
Trên cầu giác ngộ,
dưới cứu dân gian.
Có
rất nhiều người trên thế gian phát tâm từ thiện, vô úy thí, bố thí
ngoại tài, nội tài vô điều kiện cho những mãnh đời bất hạnh, nghèo khổ,
thiên tai, bịnh tật, phiền não sầu bi, gia đình tan vỡ.
Khi
mới bắt đầu chỉ có một tấm lòng với hai tay đơn độc, cùng đôi mắt từ bi
biểu lộ tình thương và cảm thông. Nhưng lòng từ bi của họ lâu dần lan
rộng, cảm ứng tâm từ thiện đến những người xung quanh, thêm người, góp
thêm một bàn tay, ngàn người tạo thành ngàn cánh tay, với tinh thần vô
ngã vị tha tuyệt đối không danh không lợi.
Đó chính là những vị Bồ Tát Thiên Thủ Thiên Nhãn trong nhân gian ở khắp mọi nơi.
Tóm lại, sức mạnh thiện căn của Phật Tâm Phật Tánh
con người ở thế gian rất thâm sâu khó nói hết được. Trong Kinh Pháp
Hoa, phẩm Tùng địa dũng xuất, Đức Phật ca ngợi đức độ và tin tưởng tuyệt
đối, sự việc người phàm xuất thân cõi ta bà chuyển pháp luân, đầy đủ bi
trí dũng, hành Bồ Tát đạo, tự tu, tự độ. Khi một người tu học Phật hiểu
và hành trì giới, được định lực, có trí tuệ và từ bi, tinh thần rất
mạnh mẽ cao thượng vô cùng, họ làm được những chuyện kỳ diệu nhiệm mầu
không thể nghĩ bàn.
Bồ
Tát Thiên Thủ Thiên Nhãn trong dân gian xả thân cứu độ mọi loài, hành
đạo giúp đời có thật không phải là hoang tưởng và Bồ Tát cũng là tâm
Phật, là “Thật Tánh” của những con người biết tu tâm dưỡng tánh, rốt ráo đoạn trừ ma chướng tự thân.
Đạo Phật không dựa vào cầu khẩn, mê tín, trông chờ sự cứu độ của Bồ Tát bên ngoài, mà dạy phải tự chuyển đổi nghiệp xấu nơi tâm, tự cứu và phát tâm thành bồ tát muốn cứu độ những người hữu duyên sống xung quanh.
Người
có tâm bất thiện nhìn thấy oai lực hình tượng Bồ Tát Thiên Thủ Thiên
nhãn cảm giác sợ hãi kinh hoàng, tưởng tượng phép lạ, mơ ước kỳ nhân,
chỉ biết cầu khẩn van lạy xin thật nhiều thứ. Một khi con người phước
đức thiện tâm có tu, thì có cảm ứng sự dịu mát kính ngưỡng khó nghĩ bàn,
tự phát nguyện tu giới hạnh và hành trì theo đức độ Bồ Tát. Tôn tượng
các vị Bồ Tát thường được ngầm ý biểu trưng thuộc về tâm thức, muốn tán
thán đức hạnh cao thượng của những người tu xuất thế gian có đủ Từ Bi và Trí Tuệ.
Đó là tất cả ý nghĩa thâm sâu của Vi Diệu Pháp cần suy ngẫm thấu đáo. [ ]
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
TKN.Thích Nữ Chân Liễu