Như thế đủ chứng minh tính mầu nhiệm của
pháp môn này. Tuy nhiên, lâu nay chúng ta
thực tập thấy có an lạc và lợi ích thiết
thực cho thân và tâm, nhưng không hiểu rõ
nguyên nhân tại sao. Trong bài này chúng ta
sẽ cố gắng tìm hiểu những lý do nào khiến
pháp môn này mang đến cho chúng ta những lợi
lạc mầu nhiệm đó.
Sau
thời gian dài sống tại Bắc Âu cũng như Đông
Bắc Hoa Kỳ là những vùng rất lạnh của thế giới,
chúng tôi nghiệm ra tại đây có rất nhiều
người mắc phải những chứng bệnh thuộc về
phong thấp như đau nhức khớp xương. Nhất là
những người lớn tuổi đến từ các nước thuộc
khu vực nhiệt đới. Bác sĩ khuyên mọi người
nên tập thể dục. Ai cũng thấy lời khuyên đó
đúng. Vì sang đây chúng ta ít khi có cơ hội
để vận động thân thể cho máu huyết lưu thông.
Chúng ta ngồi quá nhiều, vừa bước ra khỏi
nhà đã leo lên xe, đến sở làm phải ngồi suốt
buổi. Ngày này sang ngày nọ cứ như thế. Thêm
vào đó, qua sự ăn uống cơ thể chúng ta tiêu
thụ quá nhiều độc tố. Từ đó đủ các chứng
bệnh về tim cũng như ung thư phát sinh. Tuy
thế việc tập thể dục vẫn là vấn đề nan giải.
Với những người trẻ tuổi ít gặp khó khăn hơn.
Còn đối với những người lớn tuổi, đây quả
thật là một khó khăn lớn. Vì văn hoá khác
biệt, các cụ ta thấy ngại ngùng trong việc
đi bơi đi lội, đi đến nhà tập thể dục để
luyện tập thân thể. Đó là chưa kể vấn đề di
chuyển cũng như ngôn ngữ, vì phần lớn các cụ
không biết lái xe và tiếng tăm không thông.
Còn việc đi bộ cũng không dễ dàng thực hiện
được, vì vào mùa ấm còn đi lại chút đỉnh,
chứ những ngày lạnh chẳng dám hé cửa, đừng
nói chuyện ra ngoài đường. Nếu đi không khéo,
trợt tuyết té thì khổ thân. Nói tóm lại là
đành chịu chết. Các vị than phiền và không
biết phải giải quyết vấn đề như thế nào.
Chúng tôi chỉ khuyên các cụ hãy cố gắng thực
tập pháp môn Lạy Phật mỗi ngày, sáng cũng
như tối.
Các cụ
theo đó thực tập. Vài tuần lễ sau đã có người
đến chùa cám ơn, nhờ thực tập pháp môn Lạy
Phật đã khỏi bệnh. Có vị cho chúng tôi hay
sau mấy tuần lạy Phật, bây giờ đã hết luôn
chứng đau lưng. Chứng bệnh mà vị đó đã bị từ
nhiều năm nay, uống thuốc gì cũng không khỏi.
Các vị khác cho hay bây giờ ngủ ngon giấc
không mộng mị, các chứng tê nhức cũng đã hết.
Còn những người trung niên cũng cho biết họ
đã bán các dụng cụ tập thể dục, vì cứ mỗi
sáng sau khi lạy hai mươi phút mồ hôi toát
ra như tắm, như thế thì hơn thể dục nhiều.
Trong Các Truyền Thống Phật Giáo
Pháp
môn Lạy Phật không phải chỉ có các Phật tử
thuộc truyền thống Tịnh Độ thực hành, nhưng
phương pháp này cũng được các truyền thống
khác tu tập.
Với
Phật Giáo Tây Tạng vấn đề lạy Phật là một
phương pháp tu căn bản. Trong truyền thống
này, khi bắt đầu những kỳ nhập thất dài hạn,
thông thường kéo dài ba năm ba tháng ba
ngày, các vị lạt-ma lạy một trăm ngàn lạy.
Mỗi ngày từ sáng đến tối chỉ thực hành lạy
Phật. Trung bình mỗi ngày lạy được ba ngàn
lạy, và cứ lạy liên tục như thế trong ba
tháng mười ngày thì đủ một trăm ngàn.
Có người thắc mắc không hiểu lạy
như thế có lợi ích gì? Vấn đề này chúng ta
sẽ tìm hiểu cặn kẽ trong phần sau. Đại khái
chúng ta có thể hiểu đây là giai đoạn chuẩn
bị cho thời gian "hạ thủ công phu" để nỗ lực
tinh tấn trên con đường khai triển tuệ giác.
Sự chuẩn bị này được chú trọng trên cả hai
phương diện thân và tâm.
Sau
giai đoạn lễ lạy đó, tâm hồn hành giả thơ
thới, thân thể tráng kiện. Khi đó vị hành
giả cảm thấy như mình được tái sinh từ thể
xác đến tinh thần. Cần hội đủ những điều
kiện cần thiết đó thì công cuộc khổ tu của
những tháng năm đến mới thành tựu viên mãn.
Chúng ta cũng nên biết rằng, Tây Tạng là một
nước ở trên núi Hy Mã Lạp Sơn, một dãy núi
cao nhất thế giới, tuyết phủ quanh năm.
Trong điều kiện khí hậu khắc nghiệt như thế,
nếu không có một thân thể cường tráng một ý
chí mãnh liệt thì khó có thể tiếp tục công
việc tiến tu.
Do đó
sự hành trì lễ lạy là một phương pháp tốt
để đạt những mục tiêu ban đầu. ngoài ra các
Phật tử Tây Tạng cũng thực hành phương pháp
"nhất bộ nhất bái" (nghĩa là: đi một bước
lạy một lạy) trong các cuộc hành hương chiêm
bái các thánh tích như: Cung Potala nơi Đức
Đạt Lai Lạt Ma ngự, các tu viện nổi tiếng
nơi có bảo tháp các vị tổ sư...
Quang
cảnh rất cảm động chung quanh Bồ Đề Đạo
Tràng, nơi Đức Phật Thành Đạo, là hàng trăm
vị Lạt-ma cùng các Phật tử Âu Mỹ thực hành
pháp môn lễ lạy. Họ cứ lạy từ sáng đến chiều
và từ ngày này sang ngày nọ. Cách lạy của
người Tây Tạng cũng khác hơn chúng ta là họ
lạy nằm dài hết cả người xuống đất. Tấm ván
dùng để lạy trở nên bóng loáng và chỗ hai
bàn tay chống xuống để đẩy dài người ra bị
lõm sâu xuống. Điều đó chứng tỏ họ đã lạy
không biết bao nhiêu ngàn vạn lạy rồi.
Qua
những khảo sát đó, chúng ta hiểu được: Tại
sao dân Tây Tạng có thể sống khoẻ mạnh trên
đỉnh núi tuyết, nơi lạnh lẽo và thiếu dưỡng
khí? Làm thế nào để có được tín tâm vững
chải nơi Tam Bảo? Làm sao để thành đạt kết
quả tu tập? Những thành tựu đó có thể nói
phần lớn nhờ bởi công phu lễ bái. Chính việc
Lạy Phật đã giúp cho dân Tây Tạng sống khoẻ
mạnh từ thể chất đến tinh thần, có tín tâm
kiên cố nơi Tam Bảo, và thành tựu sự nghiệp
tu chứng. Ngày nay dân tộc nhỏ bé yếu kém đó
đã mang Phật Pháp truyền bá khắp nơi.
Tại
Trung Quốc, các Tông Phái Phật Giáo từ Tịnh
Độ, Thiền, Thiên Thai, đến Luật Tông, Mật
Tông v.v.. đều chú trọng vào việc Lạy Phật
như một hành trì căn bản. Trung Quốc
có những cuốn kinh dành riêng cho việc lễ
lạy như:
Kinh
Hồng Danh: 108 lạy, kinh sám hối căn bản.
Kinh
Ngũ Bách Danh: 500 lạy, gồm tên của 500
vị Phật hay 500 danh hiệu của một vị Phật
hay Bồ Tát.
Kinh
Thiên Phật: 1.000 lạy, danh hiệu của một
ngàn vị Phật.
Kinh
Ngũ Thiên Phật: 5.000 lạy, danh hiệu của
năm ngàn vị Phật.
Kinh
Vạn Phật: 10.000 lạy, danh hiệu của mười
ngàn vị Phật.
Thủy
Sám: sách sám hối, vừa tụng vừa lạy, do ngài
Ngộ Đạt soạn.
Lương
Hoàng Sám: bộ sách sám hối, do hoà thượng
Chí Công đời vua Lương Võ Đế soạn để sám hối
cho hoàng hậu Hy Thị.
Qua
các kinh đó chúng ta thấy Phật Giáo Trung
Quốc đã hành trì pháp môn Lạy Phật nghiêm
túc như thế nào.
Ngày
xưa các chùa đều được xây dựng nơi núi cao
rừng sâu, tránh cảnh thị thành náo nhiệt để
các hành giả chuyên chú quán chiếu nội tâm.
Các ngôi chùa như Thiếu Lâm Tự được xây dựng
trên núi Thiếu Thất. Để có đủ sức khoẻ chống
lại sơn lam chướng khí thú dữ, các thiền
sinh phải luyện tập võ thuật và khí công kèm
với sự tu tập phát huy tuệ giác. Tổ sư Bồ Đề
Đạt Ma là người đã khai sáng Thiền Tông tại
Trung Quốc, cũng là tổ sư sáng lập võ thuật
tại đây. Các tổ sư đã ý thức rõ ràng sự quan
hệ giữa thân và tâm. Sự thành tựu tuệ giác
phải song hành với sự tráng kiện của thân
thể. Khí công và nội lực là những yếu tố
quan trọng trong việc phát triển tâm linh.
Không thể nào có được ý chí dũng mãnh trong
một thân thể bệnh hoạn. Từ đó các tổ đã kết
hợp hai truyền thống tu luyện của Ấn Độ và
Trung Quốc, truyền thống yoga cũng như các
phương pháp luyện công luyện khí của võ
thuật được kết hợp nhuần nhuyễn để chế tác
pháp môn Lạy Phật. Như thế chúng ta thấy Lạy
Phật là kết quả tiêu biểu cho những kinh
nghiệm tu tập thoát thai từ sự dung hợp sâu
sắc tinh hoa của các nền đạo học Đông
phương. Một vị thánh tăng trong thời đại
chúng ta là ngài Hư Vân (1840 -1959), ngài
đã hành trì "tam bộ nhất bái" (ba bước một
lạy) từ Phổ Đà Sơn về Ngũ Đài Sơn, khoảng
đường dài bằng từ New York về Seatle. Trong
cuốn Tự Truyện ngài đã kể lại những kinh
nghiệm tu chứng của ngài trong thời gian lễ
bái đó. Ngài có được những khả năng phi
thường như nhìn xuyên qua vách, nghe được
tiếng từ xa, biết việc vị lai ... Lúc bị
chính quyền cộng sản tra khảo dã man, người
cai ngục tưởng ngài chết rồi. Nhưng sáng hôm
sau thấy ngài ngồi dậy như trước đó chẳng có
chuyện gì xảy ra. Ngài thọ 120 tuổi.
Ngày
nay tại Tổ Đình Vân Môn tại Quảng Đông Trung
Quốc, mỗi sáng chư tăng sau thời công phu
bắt đầu lạy ba trăm lạy.
Phật
Giáo Việt Nam cũng như Nhật Bản và Đại Hàn
chịu ảnh hưởng sâu đậm Phật Giáo Trung Quốc.
Do đó trong phương pháp hành trì rất chú
trọng về lễ lạy. Phật tử Việt Nam đến ngày
nay vẫn duy trì mạnh mẽ phương pháp tu tập
đó. Vào những ngày mười bốn và ba mươi âm
lịch, chúng ta có những thời Hồng Danh Sám
Hối. Chúng ta cũng lạy Ngũ Bách Danh, Thiên
Phật, Vạn Phật... Ngoài ra, có người cũng
phát nguyện lạy từng chữ trong các bộ kinh
lớn như Pháp Hoa, Bát Nhã, Niết Bàn, Hoa
Nghiêm...
Trước
năm 1975, lúc chúng tôi tu tập tại Chùa
Già Lam, Gia Định, mỗi sáng sau thời công
phu, hòa thượng Trí Thủ xướng hồng danh
chư Phật chư Tổ để mọi người lễ lạy. Giọng
ôn sang sảng vang dội khắp chùa. Thỉnh
thoảng ôn nhập thất. Trong suốt thời gian đó
ôn trì niệm và lễ bái hồng danh Đức Phật A
Di Đà. Những năm cuối đời ôn vẫn kiên trì tu
tập pháp môn đó. Qua cuộn băng cassette thu
tại Chùa Già Lam vào khoảng năm 1982, chúng
tôi vẫn còn nghe giọng xướng trầm hùng của
ôn và Đại Chúng. Tại Hoa Kỳ, chúng tôi được
biết Tu Viện Kim Sơn tại Bắc Ca-li thực hành
chuyên cần công phu bái sám. Đại Chúng lạy
mỗi ngày hai thời và mỗi thời khoảng hai
trăm lạy. Cũng như rất nhiều các Chùa Việt
Nam khác tu tập pháp môn lễ bái này.
Tác
phẩm nổi tiếng về sự hành trì pháp môn Lạy
Phật này là cuốn Khóa Hư Lục của vua Trần
Thái Tôn soạn. Nhà vua soạn bộ sách sám hối
này cũng trong tâm trạng thành khẩn như ngài
Ngộ Đạt sám hối nghiệp chướng nhiều đời, như
vua Lương Võ Đế sám hối quả báo của hoàng
hậu.
Như chúng ta biết vua Trần Thái Tông
là vị vua đầu tiên của triều Trần. Dưới áp
lực của thái sư Trần Thủ Độ, cũng là chú của
vua, bắt vua phải làm những việc loạn luân,
thất nhân tâm như ruồng bỏ vợ, lấy chị dâu
đang mang thai, cùng chứng kiến những cảnh
tàn sát tôn thất nhà Lý. Không chịu nổi
những cảnh tàn ác đó, nhà vua bỏ kinh thành
vào núi để xin xuất gia.
Phù Vân quốc sư đã khuyên nhà vua hãy
trở về gánh lấy trọng trách để tìm cách
chuyển đổi chính sách bạo tàn thành chính
sách khoan hòa nhân đạo, cũng như
theo
đuổi con đường tu tại gia. Nhà vua đã
trở về. Sách Khóa Hư Lục đã được soạn ra
trong hoàn cảnh đó. Trong đó nhà vua đã soạn
những bài văn thống thiết để ngày đêm sáu
thời lễ bái sám hối cho nghiệp chướng tiêu
trừ, cho quốc thái dân an. Với ảnh hưởng đạo
đức của vua Thái Tông, triều Trần đã trở
thành một triều đại quân chủ Phật Giáo hùng
mạnh trong lịch sử với những chiến thắng
Mông Cổ oanh liệt. Mông Cổ là đoàn quân bách
chiến bách thắng, xây dựng một đế quốc trải
dài từ Âu sang á, chưa bao giờ bị thua trận.
Sự
Lợi ích
Phương
pháp Lạy Phật là kết tinh của những kinh
nghiệm tu tập sâu sắc từ những truyền thống
đạo học Đông phương. Do đó những lợi ích
mang lại từ sự hành trì pháp môn này vô
cùng lớn lao. Sự lợi ích đó đạt được cả trên
hai phương diện thân xác cũng như tinh thần.
Về Thân: phương pháp Lạy Phật mang lại những
hiệu quả sau:
1.
Trước hết, động tác lạy Phật là một phương
pháp thể dục tốt. Với những cử động nhẹ
nhàng, nhưng tất cả các bắp thịt trên toàn
thân đều được vận động tối
đa.
Khác với lúc tập thể dục, vì thông thường
khi thể dục chúng ta không vận động tất cả
các bắp thịt đồng đều cùng một lúc. Ví dụ:
khi đi bộ, chúng ta vận động nhiều bắp thịt
ở chân. Chỉ có bơi lội chúng ta mới cử động
toàn thân. Trong lúc lạy Phật, tất cả các
bắp thịt trên cơ thể đều hoạt động làm khí
huyết toàn thân lưu chuyển giúp chúng ta
chữa trị các chứng thấp khớp, cũng như phòng
ngừa các chứng bệnh hiểm nghèo khác..
2. Các
huyệt đạo quan trọng trên cơ thể được tác
động. Từ huyệt bách hội trên đỉnh đầu xuống
đến huyệt đan điền dọc theo xương sống và
các huyệt ở tay
chân.
Chúng ta cảm thấy có một luồng khí nóng
chạy đều khắp cơ thể và mồ hôi theo các lỗ
chân lông tuôn ra. Theo y học Đông phương,
một khi các huyệt đạo trên cơ thể được tác
động, khí huyết sẽ lưu chuyển và bệnh tật sẽ
tiêu trừ.
3. Sau
khi Lạy Phật xong, hãy ngồi xuống chừng mười
lăm phút, chúng ta sẽ có cảm giác an lạc
thư thái ngay vì các huyệt đạo đưọc
tác động. Sự an lạc này rất sâu sắc, một
kinh nghiệm rất đặc biệt mà chúng ta chỉ đạt
được trong lúc thiền định. Sự an lạc này
mang lại cho chúng ta niềm hoan lạc suốt
ngày. Từ đó những phiền não, những ưu tư,
những đau buồn... cũng nhanh chóng tan biến.
4. Các
trọng huyệt này tương ứng với các luân xa
trong truyền thống yoga Ấn Độ. Các luân xa
này nằm dọc theo xương sống từ đỉnh đầu
xuống đến bàn tọa gồm bảy luân xa. Một khi
được tác động, các luân xa này giúp chúng ta
khai triển được những năng lực mầu nhiệm
tiềm tàng trong mỗi người, tạo điều kiện
thuận tiện cho việc phát triển tâm linh.
Về Tâm: phương pháp Lạy Phật là phương
pháp điều tâm để thanh tịnh ba nghiệp:
thân, khẩu và ý (tư tưởng, ngôn ngữ và hành
động). Phương pháp này giúp ta:
1.
Tiêu trừ nghiệp chướng: Trong sự sám hối,
thành tâm đảnh lễ mười phương chư Phật bằng
cả thân tâm của mình. Quán chiếu sâu xa
nguồn gốc tội lỗi, cùng bản tánh của tội
lỗi. Quán tưởng hào quang chư Phật mười
phương hiển hiện trước mắt, cũng như Phật
tánh trong tự tâm tỏa rạng. Nhờ Phật lực hộ
trì cùng nỗ lực tự tâm để thanh tịnh ba
nghiệp. Với sự sám hối đó các ác nghiệp và
chướng duyên đều được chuyển hóa.
2.
Thiện căn tăng trưởng: trong khi lễ lạy, hồi
hướng cho kẻ thân người thù đều được lợi
lạc, đều được thành tựu sự nghiệp giác ngộ
giải thoát. Như thế Bồ Đề Tâm (thượng cầu
Phật đạo, hạ hóa chúng sinh) được nuôi
dưỡng, lòng từ bi được phát triển. Sự lễ bái
hàng ngày đem lại cho chúng ta nguồn an lạc
vô biên. Sự an lạc này giúp cho phiền não
tiêu tan, sự trầm tĩnh trở lại trong tâm hồn
và lòng thương cũng phát sinh đối với người
ghét.
3. Đức
khiêm cung phát sinh: trong khi hạ mình
xuống sát đất để lạy Phật, để thấy những
thành đạt của mình chỉ là những giọt nước
trong đại dương bao la. Bác Hoài phát biểu
trong buổi thảo luận Phật Pháp, để chuyển
hóa tâm kiêu mạn của mình, mỗi ngày bác Lạy
Phật để hồi hướng công đức về thiên, về địa,
về sư trưởng, về ông bà cha mẹ... để cảm
nhận trùng trùng ân nghĩa. Để thấy sự thành
tựu của mình hôm nay là công ơn tác thành
của nhiều người. Để từ đó tâm khiêm nhường
phát sinh. Trong Kinh Đức Phật thường dạy,
tâm khiêm nhường là cửa ngõ của trí tuệ và
là con đường đưa đến giải thoát.
Sự
Hành Trì
Trong
truyền thống Việt Nam, chúng ta có lạy Hồng
Danh, Ngũ Bách Danh, Thiên Phật, Vạn Phật
... Tùy theo hoàn cảnh và khả năng để áp
dụng cách lễ lạy cho thích hợp. Điều quan
trọng là sự hành trì đều đặn. Nếu chưa quen
chúng ta có thể bắt đầu bằng ba mươi lạy,
rồi sau đó tăng dần cho đến một trăm lẻ tám
lạy (để trừ một trăm lẻ tám phiền não). Nếu
có băng Hồng Danh thì mở băng và theo lời
xướng danh hiệu Phật trong băng để lạy.
Chúng ta có thể lạy mỗi ngày một hay hai
lần.
Cách
đơn giản nhất, chúng ta lạy theo hơi thở. Cứ hít
vào chúng ta đứng lên và thở ra chúng ta lạy
xuống. Cứ lạy chậm rãi. Mỗi lạy chúng ta
niệm một danh hiệu Phật và đếm một, cứ như
thế cho đến đủ số. Hoặc chúng ta có thể theo
dõi đồng hồ và lạy đủ thời gian ấn định thì
ngưng. Hoặc mười lăm phút, hai mươi phút hay
nửa giờ. Đó là những phương cách đề nghị để
chúng ta tùy nghi thực hành.
Sự lễ
lạy có thể thực hiện bất kỳ chỗ nào. Miễn là
chúng ta có được khoảng không gian bằng
chừng chiếc chiếu là đủ để lạy rồi. Tốt nhất
là trước bàn Phật, nếu không thì ở chỗ nào
cũng được, miễn tâm thành là được. Ngay cả
trong phòng ngủ, mỗi sáng lúc thức dậy hay
mỗi tối khi đi ngủ chúng ta có thể thực tập.
Khi
lạy hai tay chắp ngang trán, đưa xuống ngực
rồi lạy xuống sát đất. Điều này biểu tượng
cho "thân tâm cung kính lễ" (đem thân đoan
nghiêm và tâm thành kính để lễ lạy). Lúc lạy
xuống hai tay, hai chân và trán phải chấm
đất (ngũ thể đầu địa: năm phần của thân thể
đều chạm đất). Chúng ta nên đứng thẳng người
rồi lạy xuống, sau đó đứng thẳng lên. Như
thế các bắp thịt khắp châu thân được vận
động tốt hơn (trừ khi yếu chân, có thể quỳ
lạy).
Trong
khi lạy cố gắng kết hợp cả ba phương diện:
thân đứng nghiêm chỉnh cử động nhịp nhàng
hoà hợp, hơi thở đều đặn miệng niệm danh
hiệu Phật hay Bồ Tát, tâm quán tưởng đến
Phật, Bồ Tát hay cảnh giới của chư Phật và
Bồ Tát. Ví dụ: có thể quán tưởng đến Đức
Phật A Di Đà đang ở trước mắt, hay cảnh Tịnh
Độ chung quanh ta.
Kết
Luận
Tóm
lại, phương pháp lạy Phật là một phương pháp
rất đơn giản, nhưng mang lại những lợi ích
rất lớn. Ai tập cũng được, bất kỳ nơi đâu và không
cần phải sắm dụng cụ gì cả. Đây là kết tinh
của những kinh nghiệm tu luyện quý báu của
chư tổ, đã kết hợp các phương pháp tu tập
của Thiền gia và vũ thuật gia để chế tác
thành. Sự thực hành pháp môn này mang lại
lợi ích rõ rệt cho cả thân lẫn tâm. Thân thể
cường tráng chữa trị và phòng ngừa các chứng
bệnh hiểm nghèo như bệnh tim, áp huyết cao,
ung thư.. Tinh thần an lạc thư thái. Sống an
vui hạnh phúc trong hiện tại. Tạo điều kiện
thuận tiện khai triển khả năng tâm linh vô
biên để tiến tới giải thoát hoàn toàn. Đây
là một pháp môn mầu nhiệm, những niềm hoan
lạc sâu sắc chúng ta kinh nghiệm được trong
lúc hành trì là những bước tiến vững chắc
trên bước đường tu tập. Qua những thành tựu
đó giúp chúng ta tăng trưởng tín tâm đối với
những pháp môn chư tổ truyền lại.
Lời
Phật Dạy:
Mười Công Đức Lạy Phật
1.-
Được sắc thân tốt đẹp.
2.-
Nói ra điều chi ai cũng tin dùng.
3.-
Không sợ sệt giữa đông người.
4.-
Được chư Phật giúp đỡ.
5.-
Đầy đủ oai nghi lớn lao.
6.-
Mọi người đều nương theo mình.
7.-
Chư Thiên cung kính.
8.-
Đủ phước đức lớn.
9.-
Lúc lâm chung được vãng sanh.
10.-
Mau chứng quả Niết Bàn.