Kiếp trước đời
sau tình vẫn một,
Thời gian xuôi gửi
tiếc thương về.[1]
“Đạo Phật: Đất Nước, Cuộc Sống và Tâm Linh”
là một tác phẩm văn học hiện đại Phật giáo, qua đó tác giả thể hiện cảm hứng cá
nhân bắt nguồn từ hiện thực xã hội mà xuyên suốt 355 trang giấy với 52 chủ đề trong
ba phần Đất Nước, Cuộc Sống, và Tâm Linh đều nhất quán ươm đượm nội dung Phật
lý thâm sâu qua hình ảnh giản dị trong cuộc sống của mỗi một con người chúng
ta. Tác giả nghĩ về quê hương đất nước,
ưu tư về cuộc sống trong xã hội, và nhìn về những sinh hoạt tâm linh như một gắn
bó cơ cấu giữa dân tộc Việt và Phật Giáo Việt tự ngàn xưa cho đến ngày nay và
mãi đến ngàn sau.
Tác phẩm trải
dài qua 52 chủ đề với Phần I về Đất Nước có 6 chủ đề, Phần II về Cuộc Sống có
18 đề tài, và Phần III về Tâm Linh gồm 28 bài viết. Vì thời gian quá ít nên mỗi Phần sẽ được
trưng dẫn một đề tài như là một hình ảnh tiêu biểu của Phần đó trong tác phẩm.
I.- Bài viết
đầu tiên trong Phần I về Đất Nước là
“Mái Chùa Trụ Cột Hồn Dân Tộc.”Cùng một đề tài này, cố Hòa thượng Thích Mãn
Giác đã viết bài thơ thật cảm động.
Chuông vẳng nơi nao nhớ lạ lùng,
Ra đi ai chẳng nhớ chùa chung,
Mái chùa che chở hồn dân tộc,
Nếp sống muôn đời của tổ tông.[2]
Và nhà văn Phạm Phú Minh đã viết bài bút ký “Chùa Là Cái Thiện Của Làng”
thật văn chương, nhưng “Mái Chùa Trụ Cột Hồn Dân Tộc” của tác giả Đào Văn Bình mới
thật là tha thiết tình đời nghĩa đạo, mới gắn bó tình tự quê hương, đất nước,
dân tộc và Đạo Pháp hòa vào nhau thành một khối trải dài qua lịch sử hơn hai
ngàn năm, khởi nguyên từ trung tâm Phật Giáo Luy Lâu trước Tây Lịch những hơn một
thế kỷ như nhà thơ Trần Nguyên Liêm đã viết,
Hãy ngoảnh nhìn dãy đất Việt Nam,
Một dãy giang sơn mà Phật lý vẫn trường
kỳ,
Cho đến ngày nay hằng bao thế kỷ,
Cho đến cỏ cây thấm nhuần Phật lý. [3]
Tác giả Đào Văn Bình đã ghi lại hình ảnh sinh hoạt trong xã hội Việt
Nam qua văn hóa truyền thống đượm tình người, không duy linh, không duy vật mà
vạn sự khởi từ tâm là bản sắc dân tộc, “Tất cả những gì nói trên, những sinh
hoạt của Đình, Chùa, Miếu, Đền của làng quê Việt Nam đã kết hợp nhuần nhuyễn,
hài hòa từ mấy ngàn năm để trở thành bản sắc dân tộc …”(tr. 4)
Chùa không những là nơi sinh hoạt tâm linh mà chùa còn là nơi gặp gỡ của
thanh thiếu niên nam nữ như là thiên duyên tiền định của những mối tình trong sáng
ngọc ngà như bài thơ Chùa Hương của Nguyễn Nhược Pháp. Tác giả viết, “Chính vì thế mà Hội Chày
Chùa Hương là một hội lớn của dân tộc, giống như những cuộc hành hương về Mecca
mỗi năm của hàng triệu người Hồi giáo.”
Hôm nay đi Chùa Hương,
Hoa cỏ mờ hơi sương,
Cùng thầy mẹ em dậy,
Em vấn đầu soi gương.” (tr. 7)
II - Bài viết đầu tiên trong Phần II về Cuộc Sống là “Những Khác Biệt Văn Hóa
Đông Tây.” Với kinh nghiệm của một nhà
hành chánh tại Việt Nam và kinh nghiệm của một nhà giáo tại Hoa Kỳ, nhà văn Đào
Văn Bình đã đưa ra 41 tình huống như là các trường hợp điển hình về sự cư xử
khác biệt giữa Đông Phương và Tây Phương, giữa người Việt và người Mỹ để so
sánh nhằm giúp người Việt chúng ta dễ nhận ra nguyên nhân của những khác biệt
và để điều chỉnh tác phong thích hợp trong môi trường sinh sống mới của xã hội
Tây Phương khi sự điều chỉnh là thật sự cần thiết.
Tác giả Đào Văn
Bình viết, “Do bối cảnh địa lý, kinh tế,
văn minh, triết lý và ảnh hưởng tôn giáo khác nhau, mỗi xã hội có một nền văn
hóa khác nhau. Một nền văn hóa có thể
thích hợp cho nước này nhưng chưa hẳn tốt lành cho xứ khác.”(tr. 73)
Nhưng tại sao lại
có tác phong và thái độ khác nhau giữa người Đông Phương và người Tây Phương
như thế? Tác phong khác nhau đó khởi xuất
từ quan niệm của mỗi dân tộc về năm giá trị văn hóa dẫn đạo (value orientations) trong hệ thống giá
trị văn hóa thường được gọi là tín niệm hệ (cultural
value system) sau đây.
Người ta quan niệm
thế nào về bản tính con người (
human
nature), về tương quan giữa con người và thiên nhiên (
man-nature relation), về thời gian và không gian (
time and space), về hoạt động cá nhân (
activity), và về tương quan giữa người
và người (
relational orientation)?
[4]
Trong khi người
Mỹ cho rằng bản tính con người là xấu nhưng có thể cải thiện được thì người Việt
cho rằng bản tính con người là tốt nhưng có thể trở nên xấu do môi trường sinh
hoạt; cũng vậy, người Mỹ chinh phục thiên nhiên, người Việt thuận theo thiên
nhiên để hình thành hoạt động thích hợp; người Mỹ xem thời gian rất chặt chẽ,
và không gian rất rộng lớn nhưng người Việt thì xem thời gian rất rộng rãi mà
không gian thì rất hạn chế.
Cơm vua, ngày trời;
đi trễ, về sớm … .
Ta về ta tắm ao
ta, dù trong dù đục ao nhà vẫn hơn… .
Người Mỹ sống
thành thật với chính mình (being), và
thực hiện (doing) như là mục đích của
cuộc sống qua các thành ngữ “getting
things done”, “let’s do something
about it” thì người Việt sống để trở hành (being-in-becoming), sống tự chế
(self-control), sống như là một mẫu mực cho con cháu.
Tương quan giữa
người và người của người Mỹ là tôn trọng, bình đẳng, tranh đua trong công bằng,
thương người và thương súc vật trong tinh thần bác ái của Thiên Chúa Giáo; người
Việt thì tôn ti trật tự, tôn lão kính trưởng, hài hòa, dĩ hòa vi quý, chín bỏ
làm mười, ở hiền gặp lành, hiếu với cha mẹ, thảo với anh chị em và thầy bạn, và
thương người, thương động vật, thương thực vật trong tinh thần từ bi của Phật Giáo
…
Trong bối cảnh
khác biệt văn hóa giữa người Mỹ và người Việt như thế thì tác giả Đào Văn Bình
đã đưa giáo lý từ bi, bình đẳng, tứ diệu đế và bát chánh đạo của Đức Phật đến mọi
gia đình người Việt như là một mô thức sinh hoạt thiện lành để cha mẹ hướng dẫn
và dạy dỗ con cháu của họ.
III - Bài viết cuối cùng trong Phần III
về Tâm Linh và cũng là bài thứ 52 cuối
cùng của tác phẩm là “Chữ Tâm Kia Mới Bằng Ba Chữ Tài.” Đọc đến bốn trang cuối của tuyển tập này thì
tôi lại càng cảm mến và thán phục nhà văn Đào Văn Bình hơn nữa qua lời nhắn nhũ
khép lại quyển sách bằng hai câu thơ của cụ Tiên Điền vô cùng từ ái và liễu
nghĩa.
Thiện căn ở tại lòng
ta,
Chữ tâm kia mới
bằng ba chữ tài.
Bằng một cách viết
đơn giản, nhà văn Đào Văn Bình đã trình bày thật dễ hiểu một phạm trù triết học
khó nhất, căn bản nhất, rốt ráo nhất của Phật học ở bình diện học thuật và của
Phật Giáo ở bình diện sinh hoạt tâm linh và tôn giáo.
Với truyền thống
văn học Bắc truyền thì Kinh Thủ Lăng Nghiêm (Suramgama) tập trung giảng giải cái Tâm của con người, và từ cái
Tâm thì con người mới có Thức là sự thấy biết, nghe biết, nếm biết, ngửi biết,
nhận biết và hiểu biết. Nhưng cái Tâm ở trong, ở ngoài, ở trên, ở dưới, ở trước,
ở sau cái căn (như nhãn căn là con mắt) hay ở giữa cái căn và cái trần (như
nhãn trần là đối tượng của con mắt). Tâm
ở đâu và Tâm có từ bao giờ?
Với truyền thống
văn học Nam truyền thì Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara Nikaya) ghi lại lời Đức Phật
thuyết giảng về Tâm. Đức Phật Ngài dạy: “Nầy các Tỳ Kheo, tâm là tính tỏa sáng. Và tâm bị lu mờ bởi phiền não bám vào.”
“Nầy
các Tỳ kheo, tâm là tính tỏa sáng. Và
tâm được giải thoát khỏi phiền não.”
(Luminous,
monks, is the mind. And it is defiled by incoming defilements.
[I,v,9]. Luminous, monks, is the mind. And it is freed
from incoming defilements. [I,v,10])
Ngài giảng rất rộng về Tâm, Tâm như một
chiếc gương soi hay như một thau nước mà người nữ có thể soi vào để thấy mặt bị
dơ thì đi rửa nhưng gương và thau nước vẫn có thể bị dơ thì trước khi soi phải
lau sạch gương hay phải để lắng bụi trong nước xuống thì mới soi được … . Tâm cũng vậy, phải để Tâm lắng xuống thì Tâm
mới tỏa sáng được.
Để hiểu về Tâm
là một việc rất khó thế mà qua ngòi bút của nhà văn Đào Văn Bình thì Tâm là
lãnh vực có thể hiểu được vì “
Chữ Tâm thuộc
về tiên nghiệm chứ không thuộc về hậu nghiệm.
Chữ Tâm hay cái Tâm nó nằm tràn đầy ở khắp hư không. Nó có cả ở trong ba đời hiện tại, quá khứ, vị
lai. Nó “bất sinh, bất diệt, bất tịnh, bất
cấu, bất tăng, bất giảm.” [5] Nó chính là Phật tánh của chúng sinh. Nó cũng
chính là Trí Tuệ Bát Nhã vậy.” (tr. 350-51)
Tâm vì thế, theo
tác giả, mang nội dung lòng trắc ẩn, ngay thẳng, thành thật, cảm thông, tha thứ,
bao dung, chia xẻ, giúp đỡ, từ bi, hỷ xả, hy sinh, bố thí, v.v… . Và đặc biệt, tác giả đã viết bài “Chữ Tâm Kia
Mới Bằng Ba Chữ Tài” này với hình thức một lá thư gửi cho người hiền nội “ Em
yêu dấu”, như là một lời nhắn nhũ đầy yêu thương của một người chồng lương hảo
dành riêng lời tâm tình cho người vợ hiền đầy yêu thương của mình. Một lá thư phân biệt rạch ròi thế nào là chân
tâm và thế nào là vọng tâm mà không phải bận tâm “vân hà ưng trụ, vân hà hàng phục kỳ tâm?”
Kính thưa quý vị,
Cư sĩ Nguyên
Giác Phan Tấn Hải đã nhận xét tác phẩm này thật sâu sắc như sau, “Khi nhà văn Đào Văn Bình viết về Đạo Phật,
những dòng chữ thoạt như rất đời thường của ông hiển lộ trên trang giấy đẹp như
thơ. Khi viết về đất nước, ông đứng
nhìn vượt qua những cột cờ của nhiều thế kỷ và nhiều chế độ để thấy một dòng chảy
sinh động từ ải Nam Quan tới mũi Cà Mau.
Khi viết về cuộc sống, ông từ tốn nói về phước đức đi lễ chùa, xây nhà
thương, mở cô nhi viện, và về tình yêu hóa giải các đau đớn trong đời. Khi viết về tâm linh, ông làm cho độc giả thấy
rõ pháp ấn vô thường hiển lộ trên dòng văn với hình ảnh tóc xanh chuyển sang
tóc trắng, khi hoa nở úa tàn dần, và sẽ thấy cách Đào Văn Bình mời gọi tịnh hóa
thân khẩu ý rất đơn giản nhưng cực kỳ vi diệu ở từng suy nghĩ, từng lời, từng
hành động trong đời thường. Đây là một tuyển tập thích hợp với mọi thành phần độc
giả, mọi lứa tuổi, và đọc hoài vẫn thấy như rất mới.”
và xem hướng dẫn
nơi cuối bài về cách mua qua văn phòng dịch vụ ở các thành phố lớn ở Việt Nam.
Nguyên
Toàn Trần Việt Long
(California
ngày 29/7/2017)