Chùa Bửu Minh Gia Lai - Mobile
Ý nghĩa và khái niệm mantra trong Ấn giáo
19/08/2017 20:08 (GMT+7)

 Những thánh tụng và thần chú đã được sử dụng từ rất sớm bởi những nền văn hóa cổ đại khác nhau để cầu khẩn thần linh, tổ tiên và quỷ thần hay để yểm bùa.


Mantra trong truyền thống Vệ-đà

Trong Ấn Độ cổ đại, mantra đã hình thành nên một phần quan yếu của tôn giáo Vệ-đà. Có khả năng rằng những người Indus cũng đã sử dụng những thực hành tương tự để cầu khẩn thần linh của họ. Những mantra Vệ-đà chính yếu bắt nguồn từ các Vệ-đà, mà chúng vốn là những cuốn sách về các mantra, trải qua những tên gọi khác nhau chẳng hạn như Rik, Saman và Yajus. Chúng được tụng đọc hay sử dụng theo thể thức trong những buổi lễ hiến tế Vệ-đà phức tạp.

Các mantra về truyền thống đã được sử dụng cả trong những thực hành nghi lễ về tâm linh và những hoạt động thế tục cho những mục đích khác nhau. Chúng vẫn đóng một vị trí quan trọng trong Ấn giáo như là biểu thị của lời nói thiêng liêng, sự biểu hiện của thần linh và hiểu biết siêu phàm. Trong thực hành và cầu nguyện theo nghi lễ Ấn giáo, mantra được sử dụng để truyền thông với thần linh và cầu khẩn quyền năng của họ để đạt lấy một số mục đích.

Mantra hình thành nên cái cốt lõi của những nghi lễ hiến tế Ấn giáo, mà chúng không thể được thực hiện nếu không có sự tham dự của những tu sĩ có kinh nghiệm. Trong những trường hợp như vậy, mantra thường được một hoặc nhiều tu sĩ tụng đọc lớn trong khi những người khác có thể tham gia vào nhóm tụng đọc hoặc khi họ được yêu cầu. Ta cũng có thể niệm thầm mantra để giữ lấy sự bí mật hay vì sự tiện lợi. Các Vệ-đà cho rằng hiệu lực của lời cầu nguyện và các mantra tăng lên nhiều lần khi chúng được trì niệm thầm lặng bằng tâm thành hơn là khi chúng được tụng đọc lớn.

Những người Hindu cũng có truyền thống viết các mantra (thường là tên của một vị thần) lên giấy như là một sự phụng cúng lên thần linh hay để thể hiện tình yêu và sự sùng kính đến một vị thần cụ thể. Thực hành thường bao gồm việc viết tên của một vị thần hay một mantra cụ thể trong một số lần, mà thường là 10 triệu lần. Mỗi khi mục đích đạt được, những tín đồ mang những tờ giấy hay tập vở mà ở đó họ đã viết tên vị thần và đặt chúng tại những ngôi đền hay những nơi linh thiêng thờ vị thần ấy.

Ý nghĩa của mantra

Nói theo nghĩa đen, trong tiếng Sanskrit “mantra” có nghĩa là tham cứu, tìm lời khuyên hay sự giúp đỡ, suy nghĩ hay cân nhắc. Nguồn của các mantra là thần linh. Nơi thân thể con người nó là hơi thở; nơi lời nói - mỗi mantra được trao cho một hình thức bằng lời nói - nó khơi dậy sức mạnh bí ẩn của nó và đưa nó đi khắp không gian như những sự chuyển động âm thanh đến những nơi mong muốn của nó. Những mantra như vậy là những phương tiện siêu phàm mà chúng mang những suy nghĩ và lời cầu nguyện của người tín đồ đến cõi trời và giúp họ thiết lập sự giao tiếp với thần linh.

Như vậy, theo cách nói tôn giáo, mantra chính yếu là phương tiện để giao tiếp với thần linh, cầu khẩn họ hay tìm lời khuyên và sự giúp đỡ của họ. Một từ liên đới hay phái sinh là mantri, mà nó có nghĩa là một vị thượng thư, người can gián hay đưa ra lời khuyên cho một vị cai trị, hay một vị tu sĩ đứng đầu (pradhan mantri). Là những sản phẩm của tâm thức, các mantra cũng liên quan đến trí thông minh hay sự sáng chói của tâm. Nơi một cõi tâm thanh tịnh, các mantra tự hiển lộ, như chúng hiển lộ nơi tâm những nhà tiên tri Vệ-đà. Mỗi mantra linh thiêng (man+tra) là một sự thể hiện tâm thanh tịnh, hay một tâm thấm đẫm sự sáng chói của tự ngã. Tâm càng thanh tịnh, sự ảnh hưởng của mantra càng lớn. Bởi vì các mantra biểu hiện chính nó ở nơi tâm thành thanh tịnh, chúng cũng được xem là bất diệt, không phải do con người tạo ra (apauruseya), và chỉ được nghe (sruti) như ở trong trường hợp của các mantra từ các Vệ-đà.

Trong cách sử dụng truyền thống, một mantra là một lời, một từ, một đoạn, một âm tiết, một câu hay một lời cầu nguyện thiêng liêng chứa đựng một hoặc nhiều hơn trong số năm thần lực của thần linh đó là sự sáng tạo, bảo tồn, che giấu, hủy diệt và khai mở. Một mantra có một nghĩa cụ thể hoặc không. Tuy nhiên, hầu hết những mantra và thậm chí những âm tiết đơn (bijakshara) mà chúng được sử dụng trong Ấn giáo hoặc có một nghĩa đen hoặc một nghĩa tượng trưng hoặc cả hai.

Trong tất cả các mantra, Aum được xem như là mantra gốc (mula). Nó là cái cao nhất và thuần khiết nhất và chính là Bhahman ở trong hình thức lời nói (Sabha Brhama). Nó cũng được biết như mantra Purusha (thần linh là mantra), Pranava (đời sống hỗ trợ mantra) và Taraka (bí mật), có thể thánh hóa và thanh tịnh tất cả những thể hiện bằng lời nói và những hình thức lời nói khác. Do đó, nó thông thường được sử dụng như một tiếp đầu ngữ cho tất cả những mantra khác để truyền cho chúng thần lực và sự thanh tịnh.

Những niềm tin liên hệ với mantra

Các mantra được sử dụng như là những âm thanh hay lời nói huyền bí. Bởi vì được rút ra từ các thánh điển, chúng được xem là kiết tường và thần linh ở trong hình thức lời nói. Như được nói ở trước, chúng được phú cho một hoặc nhiều hơn trong năm thần lực của thần linh. Do đó, chúng được sử dụng rộng rãi trong việc theo đuổi bốn mục đích chính của đời sống con người đó là dharma (bổn phận tôn giáo), artha (tài sản), kama (ham muốn) và moksha (giải thoát).

Chúng cũng được sử dụng trong nghiên cứu và tụng đọc kinh sách và quán tưởng. Nhiều mantra vẫn được sử dụng như những cái neo tâm thức, để ghi nhớ những khái niệm triết học hay tư tưởng tôn giáo phức tạp. Cũng có nhiều sự bí mật liên quan đến truyền thống mantra. Bởi vì hiệu lực hay những ảnh hưởng cụ thể của chúng, một số mantra không thể tiết lộ cho mọi người hay chỉ tiết lộ cho những người có đủ khả năng. Một người học hay đệ tử cũng được mong đợi giữ bí mật đối với bất kỳ mantra vở lòng nào được người thầy hay đạo sư truyền trao cho họ.

Mỗi mantra sẽ có một vị tiên tri (rishi) sáng tác nó, một nhịp điệu hay dụng cụ (chhanda) mà nó xác định âm thanh của nó, và một vị thần (devata) điều khiển nó và những biểu lộ khi mantra được phát âm đúng.

Bởi vì những thành phần ẩn giấu này và những khía cạnh thiêng liêng của chúng, có nhiều luật lệ liên quan đến việc tụng các mantra. Thái độ và sự thanh tịnh của người tụng niệm chúng cũng là vấn đề. Sự phát âm là rất quan trọng trong việc sử dụng các mantra. Không có sự phát âm và âm điệu đúng, vị thần ở nơi mantra có thể không đáp ứng. Đồng thời, điều quan trọng là mục đích sử dụng một mantra, bởi vì việc sử dụng mantra cho bất kỳ mục đích nào đều tạo ra những nghiệp quả và ảnh hưởng số phận của người sử dụng nó.

Tại sao mantra được sử dụng

Mantra được sử dụng cho cả mục đích tích cực và tiêu cực. Sau đây là một số mục đích quan trọng nhất mà các mantra được sử dụng trong Ấn giáo.

- Để giao tiếp với thần linh và thể hiện sự sùng kính

- Để cầu khẩn thần linh và tìm kiếm sự giúp đỡ hay lời khuyên của họ.

- Để làm nguôi dịu những vị thần hung dữ và tránh sự phẫn nộ của họ.

- Để tìm kiếm sự bảo vệ của thần linh nhằm chống lại những năng lực xấu ác hay kẻ thù.

- Để thanh lọc thân tâm cho sự giải thoát hay tự chuyển hóa.

- Để làm yên lặng tâm trong việc quán tưởng thần linh.

- Để sửa soạn một nơi thờ cúng trước khi bắt đầu một nghi lễ hiến tế.

- Để tôn trí tranh tượng của thần linh tại một ngôi đền hay trong việc thờ phụng gia đình.

- Để thực hiện những mong muốn thế tục và để có được sự an bình và thịnh vượng trong cuộc sống.

- Để cuốn hút người khác giới và làm họ mê đắm, hoặc yểm bùa tình địch và ngăn chặn kẻ chống đối.

- Để chiến thắng cái chết, tai ương bệnh tật, nghiệp xấu, hay những hoàn cảnh bất lợi.

- Để giúp những linh hồn quá vãng đang trên đường đến giải thoát hay tái sanh.

- Để bỏ bùa, mê hoặc hay tiêu diệt đối thủ.

- Để kiểm soát hay yểm bùa muông thú, rắn rít v.v…

- Để kiềm chế tâm và đi vào giấc ngủ sâu hay những trạng thái nhận thức cao hơn.

- Để giành lấy ân sủng thần linh hay ân sủng của một vị thầy (guru).

- Để đạt được những sức mạnh tâm linh (siddhis).

- Để thể hiện những chân lý tâm linh và triết học sâu sắc.

- Để xác nhận những chân lý bằng sự chứng nhận lời nói (sabda pramana).

- Để đạt lấy thành công trong thể thao, tranh chấp, tranh luận và trong các cuộc chiến đấu.

Các loại mantra

Tùy thuộc vào việc sử dụng và mục đích của chúng, các mantra có thể được phân thành những phạm trù khác nhau, mà chúng được trình bày dưới đây.

Những mantra có mục đích chung

Chúng là những mantra phổ biến mà nói chung công chúng đều biết và chúng được người tín đồ sử dụng vì những mục đích khác nhau, không cần theo những nguyên tắc, luật lệ và những hạn chế. Người Hindu sùng đạo sử dụng chúng trong đời sống hàng ngày của họ để thể hiện sự tín tâm, vượt qua sợ hãi, tránh điều xấu ác, truyền sự tin cậy, hay chỉ để cho tâm yên ổn. Một số cũng được sử dụng như tự kỷ ám thị để thay đổi suy nghĩ, hành xử hay huấn luyện tâm họ.

Những mantra có mục đích cụ thể

Những mantra này được tụng cho những mục đích cụ thể hay vào những dịp cụ thể, và chỉ những người cùng dòng dõi, đức hạnh, kiến thức hay lòng trung thành đối với một phái hay một một vị thầy truyền thống mới được phép sử dụng. Một vài ví dụ là những mantra mà chúng được các tu sĩ sử dụng trong những nghi lễ Vệ-đà hay Mật giáo để truyền thông với những vị thần cụ thể hay để đạt lấy những mục đích cụ thể. Những mantra mà chúng được sử dụng trong những thể thức hiến tế cũng được xếp vào phạm trù này. Những người sử dụng chúng phải tuân thủ một số luật lệ và giới hạn để đạt được những kết quả mong muốn. Những luật lệ nói đến việc chúng nên được tụng bao nhiêu lần, khi nào, ở đâu và vào những trường hợp nào.

Những mantra đem lại an bình

Chúng thường được tụng đọc ở đầu những buổi lễ hiến tế, yoga, những bài thuyết giảng tâm linh hay để bắt đầu những công việc mới. Chúng cũng được sử dụng để tẩy uế nhà cửa và nơi thờ cúng, xua đuổi đi những thế lực xấu ác hay được sử dụng trong hành thiền để làm an ổn thân tâm. Hầu hết những mantra cho mục đích an bình được sử dụng tập trung vào thần Brahman hay tam thần là Brahman, Vishnu và Shiva. Chúng thường kết thúc với cụm từ “an bình, an bình, an bình” mà nó có nghĩa là an bình ở trên cõi trời, an bình ở trên mặt đất và an bình ở bên trong.

Những mantra làm thanh tịnh

Chúng được sử dụng để sái tịnh những nơi thờ phụng và những nơi hiến tế mà ở đó những lễ hiến tế (yajna) được thực hiện. Để tẩy uế những thứ bất tịnh (dosha), chủ đàn tế lễ (yajaman), tranh tượng được sử dụng trong thờ cúng, hay đồ dâng cúng và đồ dùng được sử dụng trong nghi lễ thờ cúng. Hầu hết những mantra cho mục đích thanh tịnh được tụng đọc cùng với việc rảy nước. Người ta cũng có thể tụng chúng trong khi tắm hay ngâm mình trong một con sông thiêng hay vào những dịp kiết tường để tẩy uế nhà cửa, chủ đàn các tế lễ hay tất cả những người tham gia vào đó.

Những mantra sám hối

Như cái tên của chúng cho thấy, những mantra này được sử dụng để tìm lấy sự tha thứ cho bất cứ lầm lỗi nào mà ta có thể phạm phải vì cố ý hay vô ý trong khi thực hiện những buổi tế lễ hay thờ cúng tại gia đình. Hầu hết những nghi lễ Vệ-đà và những phương pháp thờ cúng chứa đựng một điều khoản cho việc sám hối. Sám hối luôn được thực hiện bởi vị tu sĩ đứng đầu hay tu sĩ Bà-la-môn, những người tụng đọc các mantra thay mặt tất cả mọi người tìm cầu điều may mắn và làm cho việc phụng cúng hoàn mãn.

Mantra nghi lễ

Những mantra này được sử dụng trong những nghi lễ Vệ-đà phức tạp (yajna), những tế lễ hàng ngày (nitya karma), việc thờ cúng gia đình (puja) hay những bí tích (samskara) chẳng hạn như thời kỳ mang thai, sinh con, nhập học, kết hôn hoặc qua đời. Những mantra này hầu hết được rút ra từ các Vệ-đà, hoặc từ Tantra hay từ văn học địa phương. Tùy vào việc sử dụng của chúng mà chúng có thể là những mantra mở đầu, những mantra thỉnh mời, những mantra chính, những mantra kết thúc, những mantra tạm biệt v.v… Những mantra này được đọc bởi một hoặc nhiều tu sĩ hay một người nào đó. Việc tụng đọc có thể kéo dài hàng giờ, hàng ngày hoặc hàng tháng.

Mantra nhập môn

Theo phong tục, vào lễ nhập môn (upanayana), một vị thầy hay một người lớn tuổi trong gia đình đọc một vài âm tiết hay những từ thiêng liêng vào tai của những người nhập môn trẻ để đánh dấu sự khởi đầu việc học của cậu ta về các Vệ-đà hay sự bắt đầu học tập kiến thức tâm linh. Những mantra này cũng được sử dụng bởi những vị thầy tâm linh, hay những đệ tử được chỉ định của ông, để kết nạp những thành viên mới tham gia vào truyền thống của họ, hoặc là một đệ tử tại gia hoặc là những người thực hành cao hơn.

Những mantra hủy diệt

Những mantra này dành cho việc gây nên sự thương tổn cho tâm hoặc thân. Có một chi phần đầy đủ về kiến thức ma quỷ (kshudra vidya) mà nó dành cho mục đích này. Những Vệ-đà cũng chứa đựng nhiều bài thánh tụng mà chúng được sử dụng cho những mục đích tiêu cực để hủy diệt đời sống và tài sản hay gây nên những tổn hại tâm linh. Các sử thi và Purana cho thấy cách các mantra được sử dụng trong chiến tranh để phóng những vũ khí hủy diệt và mũi tên vào kẻ thù để giết họ, làm cho họ kinh sợ, mê hoặc hay làm suy yếu đi quyết tâm của họ. Atharvaveda gồm có nhiều mantra mà chúng được sử dụng để giáng sự tổn hại hay hủy diệt vào kẻ thù cũng như các đối thủ ở trong những mối liên hệ hôn nhân, những vấn đề yêu đương v.v… Các Vệ-đà cũng có những bài tụng cho việc sử dụng ở những tế lễ thú vật.

Những khía cạnh tiêu cực của mantra

Ở mặt tiêu cực, những mantra góp phần đưa đến sự ngu tối và mê tín. Bởi vì tính phổ biến của chúng, các mantra được những kẻ lang băm vô liêm sĩ và những kẻ lừa gạt tôn giáo sử dụng để lôi kéo những người cả tin với lời hứa chữa lành bệnh, giải trừ điều không may, bỏ bùa tình địch, yểm trừ những năng lực xấu ác và thu hút giới giàu có cho mục đích kiếm tiền hay những ân huệ cá nhân. Người ta chi trả một số tiền lớn cho bùa chú, những vòng xuyến được khắc viết những mantra huyền bí để đáp ứng những mong muốn của họ hay để vượt qua những vấn đề nào đó. Một số người cũng chìm đắm trong những nghi lễ đẫm máu và những thực hành mê tín, sử dụng mantra, để đạt lấy những sức mạnh xấu ác cho những mục đích hủy diệt.

Những mantra cần phải được sử dụng cho sự thịnh vượng của xã hội, trật tự và chuẩn mực của cuộc đời. Chúng phải được sử dụng như là một sự dâng cúng đến thần linh bởi những người mà họ thanh khiết và tận tâm, như là nhiệm vụ phục vụ thần linh của họ. Bất kỳ sự lạm dụng mantra nào với mục đích vị kỷ sẽ tạo ra nghiệp xấu và đưa người ta đến chỗ sa đọa tinh thần.

V Jayaram - Đăng Nguyên dịch
Nguồn: hinduwebsite.com

Các tin đã đăng:
Về đầu trang