Ngày nay
Phật giáo đang phát triển nhanh chóng tại Tây
phương, thế nhưng việc thờ phụng và lễ bái thì
lại là những gì thật hết sức xa lạ đối với họ.
Vậy người Tây phương nghĩ gì và quan niệm như
thế nào về các nghi thức lễ bái trong Phật giáo?
Chương 7 của quyển sách trên đây được dành riêng
cho đề tài này, và dưới đây là phần chuyển
ngữ.
Thiết nghĩ
cũng xin ghi chú thêm là tác giả Fabrice Midal
đến với Phật giáo khi còn là một sinh viên và
sau khi cạo tóc quy y thì ngay sau đó ông đã lập
một bàn thờ Phật thật trang nghiêm theo đúng
truyền thống Tây Tạng tại nhà ông.
===***===
Ý Nghĩa và Vai Trò Của Lễ Bái Trong Phật Giáo
Tại sao lại có các nghi thức lễ bái trong Phật
giáo? Người Phật tử, hay ít ra là đối với một
Phật tử Tây phương thì có nên tránh các việc lễ
bái hay không?
Sự suy tư và chiêm nghiệm trong Phật giáo là
nhằm vào chủ đích giúp khơi động lòng từ bi, sự
kính trọng và lòng biết ơn, đấy cũng là những gì
thật thiết yếu trong phép thiền định mà nhiều
người (Tây phương) đều biết và thường
xuyên mang ra luyện tập. Thế nhưng phần đông lại
chẳng có một chút kiến thức nào về vai trò của
lễ bái trong Phật giáo (tác giả muốn nói là
hầu hết các người Tây phương theo Phật giáo đều
chú tâm vào việc luyện tập thiền định và không
chú ý tìm hiểu vai trò của lễ bái).
Càng coi thường việc lễ bái bao nhiêu thì chúng
ta lại càng mù tịt bấy nhiêu về giá trị của nó.
Những ai từng đã tham dự các buổi lễ lạc thì
dường như thường hay có cảm giác rằng đấy là
những thứ giả tạo.
Thế rồi chúng ta cứ ước mong sao cho Phật giáo bỏ bớt đi
những hình thức trừu tượng ấy.
Do đó chúng ta cũng nên tìm hiểu sâu xa hơn về cái
cảm tính e ngại trên đây hầu có thể hiểu được nó
một cách tường tận hơn.
Tại các quốc gia Tây phương ngày nay thì mối tương
quan thiêng liêng đó (giữa lễ bái và tôn
giáo) dần dần đã mất đi cái ý nghĩa của nó
(tại Pháp hiện chỉ còn 4.50% dân chúng đến
nhà thờ). Tuy thế cũng không có nghĩa là
trong thế giới Tây phương mối dây thiêng liêng
ấy đã hoàn toàn bị cắt đứt. Các tác phẩm nghệ
thuật cũng như các cảnh vật thiên nhiên vẫn còn
gây được nhiều tác động trong lòng một số người
và điều ấy đã chứng tỏ một cách hùng hồn là mối
dây thiêng liêng trên đây không hề mất hẳn. Thật
vậy chúng ta đều cảm thấy là đôi khi mình cũng
phải cần đến một vài phút giây thư giãn, tự do
và cởi mở nào đó trước thực tại – chẳng hạn như
những lúc ngắm nhìn một tác phẩm hội họa hay tản
bộ trên bãi biển. Trong những giây phút ấy một
cảm giác thanh thản dâng tràn trong lòng mình.
Thế nhưng mối dây thiêng liêng đó không còn phải
là một thứ độc quyền của các tôn giáo nữa, và
đối với phần đông chúng ta thì đúng ra đấy chỉ
là một cách mà các tôn giáo lợi dụng để tạo ảnh
hưởng và củng cố quyền lực, hơn là giúp cho con
người tìm thấy cội nguồn của sự sống. Do đó đối
với chúng ta (người Tây phương) các nghi
thức lễ lạc đã trở thành những thứ xiềng xích
còn sót lại từ những thời đại xa xưa, mà ngày
nay đã hoàn toàn lỗi thời. Đấy là những gì được
xem như mê tín dị đoan hay là những thứ dụng cụ
dùng để thống trị và cần phải được loại bỏ.
Thật ra thì xu hướng trên đây còn có một lý do
khác nữa.
Thời
đại của chúng ta ngày nay không còn tin vào các
thứ nghi thức lễ bái, huyền thoại, các loại biểu
tượng hay các thứ biểu hiệu, mà chỉ nhìn vào
tính cách minh bạch của sự thuần lý – dù không
hề ý thức được các khía cạnh cứng nhắc của sự
minh bạch đó. Trong thời buổi này chúng ta chỉ
muốn gỡ bỏ các tấm màn u mê của huyền thoại và
nhất mực cho rằng nghi lễ chẳng có ích lợi gì
cả. Đối với thế hệ chúng ta thì cái thế giới chỉ
biết tôn thờ sự hiệu quả này chỉ có thể trở nên
toàn vẹn khi nào những ray rứt về ý nghĩa của sự
hiện hữu đã hoàn toàn bị loại bỏ, và tất cả mọi
sinh hoạt đều nhất loạt phải được đặt dưới
sự chi phối của các tiêu chuẩn thiết lập bởi các
nguyên tắc hiệu quả.
Thế nhưng mục đích của các nghi thức lễ bái lại là
để mang con người trở về với cội nguồn của họ,
nhằm cắt đứt mối dây trần thế và xóa bỏ các thói
tục thường tình – tức có nghĩa là những gì
vô-hiệu-quả. Nếu nhìn dưới khía cạnh đó thì bất
cứ một hình thức lễ bái nào cũng đều giữ được
một chút thi vị trong từng khoảnh khắc thời gian
nhằm giúp chúng ta tìm thấy một chút ý nghĩa nào
đó trong cuộc sống của mình và để mang lại cho
sự sống ấy một khía cạnh sâu sắc hơn.
Chính vì mục đích đó mà nhiều người theo Phật giáo
đã tạo được cho mình một cuộc sống luôn hòa nhịp
một cách thật hài hòa với các nghi thức lễ bái,
đôi khi các nghi thức ấy cũng chỉ là những gì
thật đơn giản (chẳng hạn như thắp một nén
hương lên bàn thờ Phật, hay đánh một tiếng
chuông vào buổi sáng). Trước hết đấy là cách
giúp họ biết chú tâm hơn vào cái đẹp trong con
người họ và của thế giới này và để nối kết họ
với cội nguồn của họ.
Thế nhưng
nếu muốn tìm thấy cái ý nghĩa sâu xa ấy của nghi
lễ thì quả thật khá khó cho những người Tây
phương chúng ta. Bởi vì không phải chỉ biết thực
thi các nghi thức lễ bái là đủ mà còn phải ý
thức được ý nghĩa của chúng trong nếp sống
thường nhật và hình dung ra được cái ý nghĩa ấy
trong từng giây phút một.
Ý Nghĩa Của Lễ Bái Trong Phật Giáo
Lễ bái
là một tổng hợp gồm một số hành động biểu trưng
cho một sự hài hòa giữa các hành vi, ngôn từ và
sự chú tâm của chúng ta. Trong sự hài hòa ấy mỗi
cử chỉ đều phát lộ được sự thiết tha, một thể
dạng thật ý thức và trọn vẹn, và mỗi ngôn từ thì
đều giữ được sự tinh khiết. Chúng ta không thể
bảo đấy là một thứ gì độc đáo, duy nhất hay biểu
trưng cho một sự thông minh nào cả – mà thật ra
đấy chỉ đơn giản là những gì hiện hữu đúng như
thế.
Nếu muốn cho nghi thức lễ bái đạt được ý nghĩa ấy
thì nó phải đi đôi với một phép tu tập thật
chính xác và trang nghiêm. Thiền học Zen khai
triển các phép nghi lễ đẹp một cách phi thường,
thí dụ như trà đạo chẳng hạn. Trà được đưa vào
Nhật vào thế kỷ thứ XII và chỉ được xem như là
một dược thảo. Mãi bốn thế kỷ sau thì việc uống
trà mới được một vị Thiền sư là Thiên Lợi Hưu
(Rikyu) biến thành một nghệ thuật và một phép tu
tập hẳn hoi, bằng cách đưa ra một số nghi thức
chính xác, và nhất là làm phát lộ được thi tính
trong các nghi thức ấy.
Đối với bất cứ một nghi thức lễ bái nào, thân xác
phải hòa nhập với từng ngôn từ khi thốt lên – có
nghĩa là mỗi cử chỉ phải phù hợp với từng lời
nói. Tất cả đều hòa nhập với nhau để trở thành
một nếp sinh hoạt đồng nhất.
Sự suy tư và lý luận mang tính cách phân tích sẽ
tuyệt nhiên không còn cần đến nữa. Điều quan
trọng hơn hết chính là sự chính xác và nghiêm
túc trong từng cử chỉ. Không cần phải tìm cách
để sáng tạo ra thêm một thứ gì nữa cả mà chỉ cần
đơn giản thực thi những gì cần nên làm.
Do đó vai trò của nghi thức trước hết là giúp
chúng ta hòa nhập với một thứ quy củ nào đó nhằm
giúp chúng ta biết đặt chân trên mặt đất này và
đồng thời kết nối với cái bao la của toàn thể vũ
trụ, và giúp cho tất cả mọi người chung quanh
cũng được hưởng lây cái bầu không khí đó.
Đối với thế giới Tây phương thì nghi lễ không nhất
thiết phải mang tính cách tôn giáo. Thí dụ như
đi nghe một buổi hòa nhạc cũng có thể giúp chúng
ta nhận thấy được ý nghĩa sâu xa và đích thật
của nghi lễ là gì. Chúng ta bước vào nhà hát và
ngồi xuống. Các nhạc công bước vào sau và bắt
đầu chơi nhạc. Tiếng nhạc mang lại cho chúng ta
một sự thích thú nào đó. Chúng ta có cảm giác
như trút bỏ được những gì luôn đè nặng trong
cuộc sống của mình. Chúng ta vỗ tay thật nồng
nhiệt để khen thưởng và cám ơn họ.
Lễ bái cũng có một chủ đích tương tự như thế. Đấy
là những gì thật đơn giản, không hề bắt chúng ta
phải suy nghĩ rắc rối, thế nhưng lại có thể giúp
chúng ta tìm thấy được sự tự do luôn bị che lấp
và bị đè nặng bởi mọi thứ hiểm nguy và lo lắng,
bởi sự mất mát và những nỗi kinh hoàng trong
cuộc sống.
Theo quan điểm của Phật giáo thì mục đích của lễ
bái là nhằm giúp chúng ta đến gần hơn với Đức
Phật, cái bầu không gian ấy rộng mở và ấm áp
biết bao, đấy chính là sự thật trong từng khoảnh
khắc mà chúng ta không mấy khi nhận thấy được.
Phật giáo là một tín ngưỡng vô thần vì thế nên
việc lễ bái dù cho có tạo ra được một sự cảm ứng
trực tiếp và thật sự nào với Đức Phật hay không
thì cũng chẳng quan hệ gì cho lắm. Vì thế mỗi
khi suy tư về Đức Phật, về Chúa Jesus hay chỉ là
một cọng cỏ – thì điều quan trọng hơn hết lại
chính là tâm hồn mình, sự mở rộng của con tim và
nhịp thở của chính mình.
Vào thời kỳ khởi nguyên của Phật giáo tại Ấn Độ,
các nghi thức lễ bái chủ yếu nhất chỉ liên quan
đến các kiến trúc biểu trưng cho tâm linh của
Đức Phật gọi là stupa (tức là các bảo
tháp). Bảo tháp được xây dựng khắp mọi nơi
tại Á Châu. Nghi thức lễ bái thì đơn giản chỉ là
cách đi quanh các kiến trúc đó theo chiều kim
đồng hồ. Bên trong các kiến trúc ấy thường thì
cũng chẳng có phòng ốc gì cả. Cách đi quanh các
bảo tháp thì gọi là diễn hành
(circumambulation – diễn hành chung quanh một
biểu tượng mang tính cách tôn giáo). Cách
bước đi thật trang nghiêm và sự chú tâm vào từng
động tác của cơ thể giúp mình hoà nhập với sự
hiện diện của Đức Phật. Việc đi chung quanh một
kiến trúc – chẳng hạn như một bảo tháp trong
trường hợp trên đây và trục của bảo tháp là biểu
tượng của sự nối kết giữa trời và đất – chỉ là
một hình thức tượng trưng mang tính cách rất phổ
quát, thí dụ như trường hợp các vị giáo sĩ
(druide / druid) trong các bộ tộc bán khai
(của Âu Châu vào thời cổ đại) đi quanh
các gốc cây hay các con suối.
Theo dòng lịch sử các nghi thức lễ bái ngày càng
trở nên phức tạp hơn, và các nghi thức đó thì
được dựa vào các thói tục sẵn có của người Ấn
khi hầu tiếp một vị thượng khách. Lời mời được
chuyển đến vị thượng khách nhằm tỏ bày niềm hân
hoan của mình nếu được người này viếng thăm, sau
đó là cách hầu tiếp người này, việc tặng quà
hoặc thông thường hơn thì mời một bữa cơm, sau
hết là đưa tiễn người này với tất cả sự tôn kính
tương xứng với cấp bậc của người ấy. Cũng thế
thay vì tiếp rước một nhân vật nào đó thì chúng
ta mở rộng tâm hồn mình để đón nhận Đức Phật –
xem Đức Phật như một vị khách quý. Chúng ta lập
bàn thờ, đặt lên một bát nước ướp hoa thơm và
một ít lễ vật. Sau đó thì chúng ta cũng có thể
xướng lên những lời tán tụng Đức Phật. Đấy là
cách tạo ra một bầu không gian mở rộng và mang
lại những phút giây biểu dương cho một sự sinh
động nào đó.
Thật hết sức đáng tiếc là chúng ta thường quên
rằng lễ lạc và các nghi thức lễ bái cũng có thể
giúp giải thoát được tâm thức mình, mà nghĩ rằng
chỉ có phép thiền định và sự học hỏi (Đạo
Pháp) mới có thể thực hiện được việc ấy. Dù
sao thì nếu chỉ biết thực thi nghi lễ như một
thói quen mà không ý thức được ý nghĩa là gì thì
cũng chỉ hoài công mà thôi. Khi nào hội nhập
được với nghi lễ và hiểu được đấy là gì thì khi
đó nghi lễ mới có thể trở thành một sự trợ lực
lớn lao được.
Mỗi khi đứng ra thuyết giảng thì không mấy khi
tôi quan tâm đến việc thực thi các nghi thức lễ
bái đúng theo truyền thống (tức các nghi thức
tụng niệm trước khi thuyết giảng, và cũng xin
mạn phép ghi chú thêm là tác giả tu tập theo
Phật giáo Tây Tạng và rất tích cực trong việc
hoằng Pháp, và ông cũng là chủ tịch và sáng lập
viên của một hiệp hội Phật giáo) mà chỉ nhất
thiết chú trọng và đề cập đến việc thực hành
thiền định. Đấy là cách đơn giản ngồi xuống và
không cần đến một hình thức màu mè nào khác.
Không để cho bất cứ một thứ gì trở nên dư thừa.
Chỉ cần hội nhập trực tiếp với cái thể dạng trần
trụi nhất nơi con người của chính mình – và cả
với những gì đang kềm kẹp nó và giam hãm nó. Có
nghĩa là chỉ cần đón nhận cái đẹp hiển hiện ra
trong hiện tại.
Thế nhưng ngoài những lúc phải giảng dạy ra thì
lúc nào tôi cũng để cho các nghi thức lễ bái chi
phối nếp sống của tôi qua từng hành động của
tôi. Thiết nghĩ đôi khi chúng ta cũng nên thực
thi lễ bái, thế nhưng phải luôn chú tâm làm phát
lộ được ý nghĩa của nó và để sống với nó một
cách hoàn toàn ý thức.
Tại sao nên lập bàn thờ Phật?
Một trong các lý do chính yếu khiến
chúng ta không thích việc lễ bái và không lập
bàn thờ Phật là ý nghĩ cho rằng vật chất không
liên hệ gì với tâm linh.
Phật giáo không hề chủ trương phân biệt giữa vật
chất và tinh thần, giữa thân xác và tâm thức mà
chỉ khuyên chúng ta phải loại bỏ mọi sự bám víu
và các thứ gò bó khác, và luôn phải mở rộng con
tim của mình. Nào có gì khác lại có thể tỏ ra
thiết thực hơn thế được ! Tuy nhiên điều ấy chỉ
có thể thực hiện qua những kinh nghiệm cảm nhận
trong cuộc sống thường nhật mà thôi (có nghĩa
là cần đến sự chi phối của các nghi thức lễ bái
trong cuộc sống của mình).
Tất cả chúng ta đều cất giữ trong nhà một vài tấm
ảnh của cha mẹ hay con cái mình, một vài cái lọ
con con kỷ niệm các chuyến du lịch trước đây của
mình. Thật thế tâm trí chúng ta nào có đủ sức để
ghi nhớ hết được hình ảnh của những người thân
yêu và các kỷ niệm của những chuyến du ngoạn
trước đây. Phải chăng vì thế mà chúng ta thường
hay trang trí nhà cửa với các vật gợi lại cho
mình các kỷ niệm xưa?
Các vật ấy giữ một vai trò rất lớn trong cuộc sống
của mỗi người trong chúng ta. Lắm khi chúng ta
đã phải dồn hết tâm trí mình vào việc chọn lựa
các vật thân thiết nhất với mình.
Thế thì tại sao chúng ta lại không biết ghép thêm
vào cuộc sống của mình một chút gì đó mang tính
cách thiêng liêng hơn như thế ? Chẳng hạn như
một vài vật có thể nhắc nhở chúng ta tưởng nhớ
đến Đức Phật ? (tác giả muốn ám chỉ nên lập
một bàn thờ Phật hay bày một pho tượng Phật
trong nhà).
Cúng dường cũng là một cách để bày tỏ sự quý mến
của mình đối với Đấng Giác Ngộ, nói lên mối quan
tâm của mình luôn phải nhớ đến Đức Phật.
Tuy nhiên vẫn có thể xảy ra một mối hiểm nguy nào
đó mà Phật giáo không phải là đương nhiên có thể
tránh khỏi được : đấy là cách làm biến dạng cái
khía cạnh thi vị trên đây khiến nó trở thành một
mớ quy tắc cứng nhắc, và nếu lỡ mà vi phạm vào
đấy thì phải gánh chịu những điều « bất hạnh ».
Đấy chỉ là một thứ đạo đức dựa vào các tiêu
chuẩn mang tính cách bổn phận và mê tín. Cúng
dường Đức Phật không phải là cách giúp mình
tránh khỏi những gì bất hạnh, hay là để chứng tỏ
mình là một Phật tử gương mẫu, mà đúng hơn đấy
là hành động giúp mình mở rộng con tim và tâm
thức của chính mình.
Chẳng hạn như khi ta tặng một món quà cho một
người bạn thì đấy cũng có nghĩa là lòng thiện
cảm của mình đối với bạn phải quan trọng hơn là
giá trị của món quà. Chúng ta tìm thấy một sự
vui thích nào đó qua cử chỉ hiến dâng. Cũng thế,
hành động cúng dường mang nhiều ý nghĩa nội tâm
hơn là giá trị của vật hiến dâng – cái ý nghĩa
nội tâm ấy biểu trưng cho lòng biết ơn, sự tự
tin và lòng kính mến của mình.
Tại sao chúng ta nên cúng dường các ảnh tượng
biểu thị Đức Phật?
Câu
trả lời
thật hết sức đơn giản, đấy là vì chúng ta thường
hay quên bẵng đi sự hiện diện của Đức Phật, của
tình thương yêu và sự trìu mến. Chính vì thế mà
chúng ta cần phải phát lộ một hành động thiết
thực nào đó giúp chúng ta hội nhập với cái bầu
không gian rộng mở ấy.
Tuy nhiên sau đây là cách giải thích thông thường
hơn. Nhiều học phái chủ trương nếu muốn đạt được
Giác Ngộ thì một mặt phải khai mở tâm thức mình
(trí tuệ) và con tim mình (từ bi)
và một mặt thì phải tạo ra các cảnh huống thuận
lợi (đạo đức). Đấy là sự kết hợp giữa trí
tuệ và đạo đức. Thiền định và học hỏi (Đạo
Pháp) giúp chúng ta đạt được khía cạnh thứ
nhất (trí tuệ). Hành động sẽ mang lại
khía cạnh thứ hai (đạo đức). Cử chỉ dâng
lên Đức Phật một cánh hoa dù chỉ mang tính cách
tượng trưng đi nữa thế nhưng đấy chính là cách
tốt nhất để gợi lên sự hiện diện của Đức Phật.
Khía cạnh thứ nhất (trí tuệ) mang tính cách
tối thượng, khía cạnh thứ hai (đạo đức)
mang tính cách tương đối. Phật giáo chủ trương
hai khía cạnh ấy luôn phải đi đôi với nhau.
Tất cả các nghi lễ đó có phải là
những hình thức tôn thờ hình tượng hay không?
Các tôn giáo dựa vào Kinh điển đánh giá Phật giáo như là một
tôn giáo tôn thờ hình tượng.
Thế nhưng tôn thờ hình tượng là gì? Đấy là cách làm cho sự
tuyệt đối ngưng đọng lại trong các hình tượng
giúp chúng ta chế ngự được nó và tiếp cận được
nó, và đồng thời cảm nhận được một tình thương
yêu buộc mình vào các hình tượng ấy. Đối với các
tôn giáo dựa vào Kinh điển thì đấy là cách giúp
đạt được sự hiện thực của Trời vượt lên trên tất
cả các hình thức biểu thị của con người.
Tuy nhiên Phật giáo cũng nhất thiết đối nghịch lại một cách
triệt để đối với bất cứ một hình thức tôn thờ
hình tượng nào. Thật thế, cũng giống như các tôn
giáo khác dựa vào Kinh điển, Phật giáo cũng bác
bỏ cách làm cho sự tuyệt đối phải bị khô cứng,
thế nhưng Phật giáo lại sử dụng một phương cách
khác hơn. Chẳng những Phật giáo bác bỏ bất cứ
một hình thức xác định nào về một sự tuyệt đối
bất động sau khi đã thu nhỏ để biến nó trở thành
những hình tượng biểu thị, mà hơn nữa Phật giáo
còn xem đấy là những gì sai lầm và ảo giác. Đối
với Phật giáo, khái niệm về một vị Trời mang
hình tướng con người là một cách thu hẹp sự
tuyệt đối, một hình thức tôn thờ hình tượng. Và
dù cho Phật giáo có chủ trương tôn vinh hình
tượng đi nữa, thì Phật giáo cũng ý thức được
rằng đấy chỉ là cách giúp tiếp nhận được một
cách cụ thể kinh nghiệm cảm nhận của chính mình
đối với Đức Phật, tức là những gì không thể mô
tả được bằng ngôn từ.
Chủ trương một tín
ngưỡng Phật giáo tinh khiết, hoàn toàn duy lý và
phi-lễ-bái chỉ là một chuyện giả tưởng của thế
giới Tây phương. Nếu nghĩ rằng cần phải thanh
lọc để loại bỏ ra khỏi cuộc đời của Đức Phật tất
cả những gì mang tính cách huyền thoại để viết
lại một tiểu sử duy lý hơn, thì đấy sẽ là cách
loại bỏ ra khỏi Phật giáo tính cách phức tạp của
các kinh sách giáo lý, và đấy cũng chính là cách
không nhìn thấy được tầm quan trọng của các nghi
thức lễ bái trong việc tu tập. Đấy là cách
làm khô cạn dòng máu của Phật giáo.
Tại sao lễ bái lại rất giống với thi phú?
Tại Trung Quốc dưới thời nhà Đường
(518-907), người ta thấy phát sinh một
khuynh hướng xem cảm hứng trong thi phú và trực
giác phát sinh từ kinh nghiệm cảm nhận của một
người hành thiền rất gần với nhau. Thi hào
Li-Tche-yi trong một bức thư viết cho bạn có một
câu như sau: «Không có sự khác biệt nào giữa con
đường của Đức Phật và thi phú; sự giác ngộ nơi
đầu ngọn bút lông cũng chẳng khác gì với sự Giác
Ngộ của Đức Phật».
Bước sang thời đại nhà Tống (960-1279), chủ
trương nêu cao tầm quan trọng của mối tương
quan trên đây (giữa thi phú và những cảm nhận
khi hành thiền) đã đạt được một cấp bậc thật
cao, và chủ trương này cũng đã được truyền sang
Nhật Bản vào thế kỷ XII. Thiền học Zen dựa vào
một số phương pháp thật uyên bác đã nâng những
gì mà chúng ta gọi là « thi phú » lên một vị thế
thật quan trọng. Theo chủ trương đó thi phú
không những chỉ là một sự «thực hiện» hay một sự
«sáng tạo» mà còn là con đường giúp bước vào sự
tĩnh lặng. Hầu hết các hành động của con người
đều có thể hướng vào con đường mang lại sự hoàn
thiện, hay là một phép tu tập giúp cho tâm thức
bừng tỉnh dậy trong ta nhằm giúp nó trực thoại
với chính nó, tương tự như vô-hình cất lên tiếng
hát với vô-hình.
Thiền học Zen sáng tạo ra một con đường, hay đúng
hơn là một thứ nghi lễ nhằm hướng dẫn hầu hết
các hành động của con người: chẳng hạn như cắm
một cành hoa vào bình hay rót một tách trà. Thật
thế, trà đạo là một phương tiện đơn giản thế
nhưng đã nêu lên được thế nào là đạo đức Phật
giáo. Sự chú tâm vào cách sử dụng các dụng cụ
(pha trà) và vào từng cử chỉ sẽ làm phát lộ
được mối tương quan với toàn thế giới, và đồng
thời thì toàn thể thế giới cũng tiếp tay để ca
ngợi sự tương quan ấy (ý thức được sự tương
quan với toàn thể thế giới là một phương tiện
giúp phát lộ lòng từ bi).
Người hầu
trà chú tâm vào việc pha trà thế nhưng cùng lúc
cũng hoà đồng nhịp thở và các động tác của mình
với nhịp thở và động tác của các vị khách đang
ngồi trước mặt. Nguời hầu trà dùng một chiếc
khăn lụa để lau chiếc lọ sứ đựng trà và cái thìa
múc trà bằng tre. Chính xác trong từng cử động
một. Sau đó thì dùng một cái gáo nhỏ bằng tre để
múc nước sôi trong ấm và rót vào một cái bát.
Nước trong bát được dùng để rửa một túm chổi tre
và sau khi rửa xong thì túm chổi tre cũng được
kiểm tra lại cẩn thận. Nước trong bát được đổ đi
và bát thì được lau sạch bằng một chiếc khăn ẩm
bằng chỉ gai.
Tiếng nước sủi tăm trong ấm reo lên khe khẽ. Người
hầu trà cho bột trà vào bát (trà đạo sử dụng
trà đã xay nhuyễn thành bột), rót nước nóng
vào, dùng túm chổi tre để khuấy cho tan đều, sau
đó lại thêm vào một ít nước nữa, lại tiếp tục
khuấy đều và sau khi khuấy xong thì mời người
khách thứ nhất.
Thoạt nhìn thì nghi lễ ấy có vẻ thật đơn giản và
tự nhiên, thế nhưng thật ra thì lại vô cùng tinh
tế và phải mất nhiều năm để học hỏi và thực tập.
Mỗi giai đoạn của phép trà đạo đều được quy định
một cách thật tỉ mỉ : bắt đầu là việc chuẩn bị
và mời khách, tiếp theo thì người hầu trà pha
trà với các động tác thật chính xác, sau cùng là
các vị khách lần lượt thay nhau thưởng thức.
Không để cho bất cứ một sơ hở nhỏ nhoi nào có
thể xảy ra một cách bất ngờ. Sự chuyển động của
toàn thân và cả các cử động của từng ngón tay
tất cả đều nhịp nhàng như một vũ điệu! Đồng thời
tỏa ra một bầu không khí làm hiển lộ một sự tự
nhiên thật nghiêm khắc và trang trọng.
Cái bầu không khí đó sẽ khiến cho người khách
thưởng thức trà có cảm tưởng là mình đang trải
qua một khoảnh khắc nào đó vượt ra khỏi mọi kích
thước của thời gian, hay nói đúng hơn thì đấy
cũng là một cách hội nhập với cái thời gian thật
tinh khiết mà nơi đó những gì sâu xa nhất của sự
sống đang ngự trị. Thật thế nghi thức trà đạo
giúp mình hòa nhập với người khác và với cả
thiên nhiên.
Đấy cũng là
nơi ngự trị của những gì quan trọng và mầu nhiệm
nhất của lòng từ bi Phật giáo. Cái lòng từ bi đó
ẩn nấp phía sau những động tác thật kín đáo, đấy
là sự quan tâm đến từng chi tiết thật nhỏ bé
nhằm tạo ra một bối cảnh thuận lợi giúp biến cải
con tim mình ăn nhịp với từng động tác. Và đấy
cũng chính là ý nghĩa đích thật của các nghi
thức lễ bái.
Chúng ta có nên bày ra thêm các nghi thức mới
hay không?
Các nghi thức lễ bái dù là do các vị
thầy Tây Tạng hay các vị thiền sư Zen thực thi
thì cũng đều là các nghi thức lễ bái đích thật
của Phật giáo, thế nhưng đồng thời thì các nghi
thức ấy cũng chịu ảnh hưởng nặng nề từ các nền
văn hóa và các thần linh địa phương. Tuy rằng
các thói tục lễ bái ấy là những gì hoàn toàn xa
lạ đối với người Tây phương thế nhưng họ vẫn cứ
mang ra để thực thi. Tất nhiên là việc thực thi
ấy không mang lại nhiều lợi ích cho họ, lý do
cũng dễ hiểu vì đấy không phải là những gì đã
từng ăn sâu vào ngôn ngữ, phong cách cũng như
lịch sử của họ (người dịch cũng xin mạn phép
góp thêm một chút thiển ý. Quả đúng là người
Phật giáo Tây phương tùy theo học phái của mình
có thể tụng niệm bằng tiếng Nhật, tiếng Tây
Tạng, tiếng Pa-li... và ăn mặc theo các nhà sư
Nhật Bản, Tây Tạng hay Theravada... Tuy rằng các
nghi thức ấy dù không phản ảnh ngôn ngữ, phong
cách và lịch sử của họ, thế nhưng cũng giúp họ
hội nhập được với nguồn gốc và lịch sử nói chung
của Phật giáo. Xin đơn cử một bằng chứng khá cụ
thể là trước đây hội Thiền Học Zen của Pháp dịch
bài Tâm Kinh ra tiếng Pháp để trì tụng, thế
nhưng sau đó không lâu thì lại quyết định quay
lại tụng niệm bài kinh này bằng tiếng Nhật, bởi
vì cách trì tụng bằng tiếng Pháp hình như không
mang lại hiệu quả như mong muốn).
Theo tôi thì phải bày ra các nghi lễ khác hơn, ăn
sâu hơn vào nền văn hóa sẵn có của người Tây
phương và phù hợp hơn với bối cảnh sinh sống của
họ (ý kiến nay cũng khá đúng vì các vị tu
hành theo thiền học Zen, Phật giáo Tây Tạng,
Tích Lan, Trung Quốc... tụng niệm bằng các ngôn
ngữ khác nhau, cách ăn mặc và các nghi thức lễ
bái cũng có phần khác nhau, thế nhưng cũng có
nhiều nét rất gần nhau. Do đó nếu người Tây
phương thật sự muốn tìm cho mình các nghi thức
lễ bái phù hợp với văn hóa và lịch sử của mình
thì nhất thiết là một việc nên làm, thế nhưng
cũng không phải là một việc dễ. Người ta thường
thấy tác giả Fabrice Midal mặc áo sơ-mi và áo
vét màu đen, đeo cà-vạt hình lá cờ Phật giáo,
trên ngực áo thì cái một cái trâm hình chiếc lá
bồ-đề, đầu thì cạo nhẵn thín. Có phải chăng đấy
là cách mà ông muốn nêu lên hình ảnh tiêu biểu
của một nhà sư Tây phương ? – ghi chú thêm của
người dịch). Cũng xin mạn phép được nhắc lại
rằng chủ đích sâu xa của nghi lễ là giúp tạo ra
một sự hòa nhập giữa thân xác, các kinh nghiệm
cảm nhận cũng như các xúc cảm của mình với sự
hiện diện của Đức Phật, nhằm giúp mình vượt lên
trên các mối tương quan mang tính cách hoàn toàn
« trí óc » đối với thế giới này. Tóm lại là quả
thật hết sức khó cho chúng ta (tức người Tây
phương) phải học theo các nghi thức lễ bái
thực thi ở Trung Quốc hay Campuchea từ những
thời đại xa xưa.
Tất nhiên
không phải là quá khó cho người Tây phương học
hỏi và thực hành các nghi thức trà đạo hay các
nghi lễ thụ giới tan-tra của người Tây Tạng. Tất
cả các nghi thức ấy đều thật hết sức tuyệt vời,
tuy nhiên chỉ có một số ít người Tây phương có
thể theo kịp. Chính vì thế sẽ rất khó để có thể
giúp cho Phật giáo trở nên sinh động và khởi sắc
trong lòng mọi người ở khắp nơi.
Phải chăng đã có nhiều buổi lễ long trọng từng
được tổ chức
nhằm đánh dấu các biến cố trọng đại
trong cuộc đời của mỗi người hay chăng?
Dân tộc
nào cũng
có những nghi thức lễ lạc cầu kỳ mang ít nhiều ý
nghĩa liên quan đến cuộc sống. Các nghi thức lễ
lạc ấy là nhằm đánh dấu các biến cố trọng đại
trong mỗi kiếp người: chẳng hạn như lúc sinh, sự
chuyển tiếp từ giai đoạn trẻ thơ sang tuổi thiếu
thời (người Do Thái tổ chức các nghi lễ để
đánh dấu sự chuyển tiếp hay «trưởng thành» này,
tức là lúc đứa trẻ được 13 tuổi đối với con trai
và 12 tuổi đối với con gái), ngày thành hôn
hay khi chết.
Chúng ta sẽ không sống một cách thật
sự nếu như các biến cố xảy ra trong cuộc đời
mình chẳng còn mang một ý nghĩa nào nữa. Có rất
nhiều người lúc bình thường thì thờ ơ với tôn
giáo thế nhưng vẫn quay về với tôn giáo mỗi khi
xảy ra các biến cố trọng đại trong đời mình. Kể
cả đối với những người vô thần cực đoan nhất thì
đôi khi người ta vẫn thấy họ tổ chức hôn lễ tại
nhà thờ hoặc xin làm thánh lễ vào các dịp ma
chay (tác giả nói đến những gì xảy ra trong
các xã hội Tây phương, thế nhưng thực trạng đó
thật phổ quát và có thể xảy ra trong bất cứ một
xã hội nào hay một quốc gia nào).
Chúng ta luôn cần đến các hành động, các ngôn từ và cử chỉ
giúp chúng ta hòa nhập với một mớ biểu tượng hầu
giúp chúng ta tìm thấy một sự trợ lực nào đó.
Phật giáo luôn khuyên chúng ta nên chọn cho mình
những biểu tượng nào thích nghi nhất trong từng
cảnh huống. Chính vì thế nên lúc nào tôi cũng
sẵn sàng và luôn tìm thấy một niềm hân hoan khi
đứng ra làm chủ lễ các cuộc hôn phối và tôi luôn
xem đấy như là một dịp để làm hiển lộ những gì
đích thật trong tình yêu thương.
Ngày nay người ta thường xem cái chết như là một biến cố mang
tính cách hung bạo, một sự thất bại trong cuộc
sống. Thế nhưng các nghi lễ đánh dấu sự xa lìa
giữa chúng ta và người quá vãng hình như không
còn giữ được như trước nữa. Nhiều nhà xã hội học
và tâm lý học rất quan tâm đến các vấn đề khó
khăn sinh ra từ sự thờ ơ đó. Việc loại bỏ các
nghi lễ là một cách chối bỏ tầm quan trọng của
sự xa lìa do cái chết gây ra và cả nhu cầu ước
mong tìm thấy cho mình một sự an ủi tâm linh
luôn hiện hữu trong lòng mỗi con người. Phật
giáo là một tín ngưỡng có thể giúp chúng ta giải
quyết được những khó khăn này.
Phật giáo là một tín ngưỡng phi giáo
điều do đó có thể giúp cho nhiều quốc gia khác
nhau sáng tạo ra thêm các nghi thức lễ bái mới.
Phật giáo đồng thời cũng mang các khía cạnh
phi-tôn-giáo và do đó có thể giúp chúng ta nhìn
thấy được những gì thiết thực dễ dàng hơn : đấy
là cách gợi lên các động tác và biểu tượng
(tức có nghĩa các nghi thức lễ bái) nói lên
được một cách cụ thể ý nghĩa của thực tại và
niềm hân hoan trong sự hiện hữu của mình vào
những giây phút hiện tại đang xảy ra.
Phật giáo cũng nhất thiết chủ trương vô thần, và
chính vì thế mà mỗi khoảnh khắc cũng sẽ đúng
thật là như thế, không cần phải ghép thêm cho nó
một ý nghĩa ngoại lai nào khác (hiện thực là
như thế không cần đến bàn tay của một đấng Tối
Cao nào cả).
Nghi thức
lễ bái chỉ nhằm làm hiển lộ sự thật trong từng
bối cảnh khác nhau.
===========================
Vài lời ghi chú của người dịch
Phật giáo Đại thừa đưa
ra nhiều nghi thức lễ bái đôi khi khá cầu kỳ và
Phật giáo Nguyên Thủy cũng có nhiều nghi lễ dù
bề ngoài có vẻ đơn giản thế nhưng thực ra cũng
không kém phần trang trọng và nghiêm túc.
Trong khi đó thì một số người Phật giáo Tây
phương lại có khuynh hướng muốn biến Phật giáo
trở thành một «tín ngưỡng» hoàn toàn khoa học,
thực dụng và duy lý. Đại diện cho khuynh hướng
này là một vị thiền sư và học giả Phật giáo lỗi
lạc là Stephan Batchelor, và khuynh hướng này
của ông cũng hiện đang gây ra nhiều tranh cãi
tại Tây phương.
Sở dĩ nêu lên sự kiện trên đây là vì một vài học giả Phương
Tây thường hay ghép chung một cách sai lầm
khuynh hướng trên đây của Stephan Batchelor với
chủ trương tu tập của một vị đại sư và tư tưởng
gia Phật giáo thuộc tầm cỡ lớn của Thái Lan là
Buddhadasa Bhikkhu (1906-1993). Stephan
Batchelor chủ trương biến cải Phật giáo để thích
nghi với khuynh hướng duy lý trong các xã hội
Phương Tây, trong khi đó thì Buddhadasa Bhikkhu
một mặt vẫn tôn trọng phần giáo lý tinh khiết
của Phật giáo và một mặt thì chỉ nêu lên và
triển khai những khía cạnh nào thật thiết thực
giúp người tu tập hướng thẳng vào giác ngộ. Chủ
trương này có thể nhận thấy khá rõ nét qua một
tác phẩm rất nổi tiếng của ông mang tựa đề là «Quyển
Sách cho Nhân Loại».
Dù sao thì các nghi thức lễ bái hiểu theo nghĩa rộng, cũng
thật hết sức cần thiết cho bất cứ một tín ngưỡng
nào, đấy là nguồn sinh lực của tôn giáo nói
chung. Đối với trường hợp của Phật giáo thì dù
đấy là Đại Thừa hay Nguyên Thủy thì cũng đều có
những nghi thức lễ lạc mang các ý nghĩa thật gần
nhau. Thật vậy, nếu một người Phật tử Đại Thừa
viếng thăm một nước Phật giáo Nguyên Thủy chẳng
hạn như Miến Điện, Thái Lan hay Tích Lan thì
cũng rất có thể là sẽ không cảm thấy một chút xa
lạ nào cả.
Riêng tại Việt Nam thì lại thường xảy ra một sự «pha lẫn»
thật lạ lùng và đầy thú vị, rất nhiều Phật tử
Đại Thừa đến chiêm bái các ngôi chùa Nguyên
Thủy, họ thắp hương và lễ bái cũng chẳng khác gì
như khi họ đến với một ngôi chùa Đại Thừa, và
nguợc lại thì các Phật tử Nguyên Thủy cũng
thường xuyên tham gia vào các dịp lễ lạc của Đại
Thừa.
Nếu người Phật tử Nguyên Thủy chú tâm vào việc thực thi các
nghi thức lễ bái thật tinh khiết giúp mang lại
cho mình một nội tâm trong suốt thì người Phật
tử Đại Thừa lại chăm lo và quan tâm đến từng chi
tiết thật nhỏ phản ảnh qua từng động tác và ngôn
từ của mình nhằm giúp cho các xúc cảm từ bi và
một sức mạnh nội tâm thật phi thường trỗi dậy và
tràn ngập con tim của mình.
Thiết
nghĩ cũng nên nêu lên một vài nhận xét về thiền
học Zen mà trên đây tác giả cũng đã trình bày
một vài nét về ý nghĩa của trà đạo. Thật thế,
thiền học Zen dù bề ngoài chủ trương sự đơn sơ
và tinh khiết thế nhưng thật ra thì đã sáng tạo
ra vô số những quy tắc và nghi thức lễ bái thật
chính xác, quy củ và vô cùng tinh tế.
Thí dụ
sau đây nêu lên sự diễn tiến của một buổi hành
thiền cũng sẽ có thể nói lên được sự tinh tế đó.
Trườc khi bước vào thiền đường thì người hành
thiền phải cởi dép và xếp thật ngay ngắn và thứ
tự nơi bậc thềm ở cửa thiền đường, mũi của đôi
dép hướng ra phía ngoài. Khi ôm tọa cụ để bước
vào bên trong thì phải bước bằng chân trái, và
ngay sau đó thì hướng nhìn lên bàn thờ Phật và
vái lạy trước khi tìm một chỗ để ngồi xuống. Khi
đã bước vào bên trong thì phải giữ yên lặng và
không còn được phép nói một lời nào nữa. Không
được đi tréo ngang phòng thiền, hoặc đi ngang
trước bàn thờ Phật mà phải giữ hướng đi thẳng,
nếu muốn đổi hướng thì phải xoay mình theo một
góc 90 độ và lại tiếp tục đi thẳng, nếu cần thì
lại đổi hướng cho đến khi nào tìm được chỗ ngồi.
Đến nơi ngồi thì đặt tọa cụ xuống, chiếc quai
bằng vải của tọa cụ phải hướng ra phía trước.
Trước khi ngồi thì xoay người và hướng vào bàn
thờ Phật vái lạy, sau đó thì vái lạy chỗ mình
sắp ngồi và vén áo cà-sa thật gọn và ngồi lên
tọa cụ. Phải chú ý so thật thẳng với các người
ngồi cùng một hàng với mình, và giữ một khoảng
cách đối với bức tường trước mặt đúng như những
người khác. Nếu phải ngồi vào hàng thứ hai thì
không được ngồi sau lưng người ngồi ở hàng phía
trước mà phải ngồi đúng vào khoảng cách giữa hai
người trước mặt...
Trong
khi hành thiền thì nơi bốn góc thiền đường có
bốn vị thiền sư ngồi đối mặt với các người hành
thiền để «canh chừng», tay thì cầm một cái
chuông nhỏ. Nếu có vị nào tâm không yên hoặc bị
xao lãng thì thể dạng dao động ấy sẽ phản ảnh
ngay trên tư thế ngồi, chẳng hạn như ngồi không
yên, thường xuyên sửa tư thế, lưng không được
thẳng hoặc hai vai bỗng nhiên xệ xuống,.., và
các dấu hiệu đó không sao tránh khỏi sự quan sát
của vị thiền sư phụ trách việc canh chừng, và vị
này liền đánh một tiếng chuông thật khẽ để cảnh
giác và để kéo người hành thiền trở về với thể
dạng chú tâm. Vị thiền sư chủ trì thì ngồi trên
một cái bục thấp, hướng vào bàn thờ Phật trong
tư thế nhập định. Vị này thỉnh thoảng cũng có
thể cất lời để nêu lên một công án hay giảng một
vài câu kinh ngắn với một giọng nói thật thấp,
chậm rãi và thật êm ả.
Tóm lại
nếu người hành thiền không nắm vững được ý nghĩa
của các nghi thức trên đây thì rất có thể sẽ
nghĩ rằng đấy là những quy tắc quá đỗi nghiêm
túc, khắt khe và câu nệ. Thế nhưng khi đã ý thức
được chủ đích sâu xa của các nghi thức ấy thì
người hành thiền cũng sẽ hiểu rằng sự trang
trọng và nghiêm túc đó lại chính là một phương
tiện giúp mình quên đi cái ngã của chính mình và
để hòa nhập với cái bầu không gian vắng lặng,
trang nghiêm và ấm áp đang tỏa rộng chung quanh,
một bầu không gian thật sâu xa và tinh khiết,
vượt ra khỏi không gian và thời gian, cắt đứt
các mối dây trói buộc mình với thế giới trần
tục.
Sau khoảng một giờ (hay một tuần nhang) thì buổi hành thiền
tạm thời dừng lại, mọi người đứng lên nối đuôi
nhau hành thiền.Việc hành thiền cũng được quy
định bởi nhiều quy tắc thật nghiêm nhặt không
kém gì so với những điều quy định cho tư thế
ngồi.
Sau khi phần hành thiền chấm dứt thì mỗi người lại lần lượt
quay về vị trí của mình để tiếp tục thiền định
và lần này thì cũng kéo dài khoảng một giờ. Buổi
hành thiền chấm dứt bằng ba tiếng chuông của vị
sư chủ trì, và tiếp theo đó là chín hồi trống
thật mạnh kéo người hành thiền trở về với hiện
thực chung quanh. Mọi người xoay lưng lại, hướng
vào nhau và đọc kinh theo nhịp mõ. Sau đó thì
tất cả đứng lên hướng vào nhau vái lại và quỳ
mọp xuống để lạy nhau ba lần. Sau cùng thì mỗi
người ôm tọa cụ của mình nối đuôi nhau chậm rãi
bước ra khỏi thiền đường. Khi gần đến cửa thì
xoay người lại hướng vào bàn thờ Phật để vái lạy
một lần chót. Trước khi bước ra thì lại có một
vị thiền sư đứng sẵn bên cạnh cửa, tay cầm một
cái chuông nhỏ vừa đánh nhẹ một tiếng vừa vái
lạy mình và mình cũng phải vái lạy lại để trả
lễ. Khi bước ra khỏi cửa thì phải bước bằng chân
phải...
Trên đây là tóm luợc diễn tiến tiêu biểu của một buổi hành
thiền theo học phái Zen, một vài chi tiết có thể
thay đổi tùy theo các chi phái hay các vị chủ
trì. Tóm lại chỉ cần nhìn vào khía cạnh « duy
lý » và «thực dụng» của các nghi thức trên đây
thì chúng ta cũng có thể nhận thấy được đấy là
một cách biểu dương sức sống của một tín nguỡng,
sức mạnh của lòng quyết tâm nơi mỗi cá thể, và
tất cả đều liên hệ mật thiết đến sự tồn vong của
một tôn giáo. Thật thế nếu một tôn giáo không
còn đủ sức bảo tồn và duy trì các nghi thức lễ
bái của mình thì cũng sẽ mai một mà thôi. Nếu ý
thức được một cách sâu xa hơn như thế thì cũng
có thể hiểu được các nghi thức lễ bái chính là
một trong các «phương tiện thiện xảo » (upaya)
giúp chúng ta bước theo Con Đường một cách vững
chắc hơn.
Nói cách khác thì đấy là hiện thân của giáo lý
hoặc cũng có thể khẳng định đấy chính là hóa
thân (nirmanakaya) của Đấng Như Lai.
Bures-Sur-Yvette, 10/03/2012
Hoàng Phong
chuyển ngữ