1. Dẫn nhập
Sự sống của con người đang bị giảm dần theo năm tháng bởi sự bào mòn
của thời gian, sức tàn phá của sanh, già, bệnh, chết. Đời sống này cũng
sẽ đi vào ngõ cụt nếu trong tận tâm thức của con người luôn ngự trị bởi
bóng đêm của tham, sân, si. Thế giới mà chúng ta đang sống cũng đang gặp
phải những biến động của thời tiết, trái đất đang nóng dần lên, bạo lực
gia đình, bạo lực học đường, bạo lực xã hội … đang len lõi trong mọi
ngõ ngách của cuộc sống. Đứng trước những thách thức như vậy, chúng ta
phải làm gì để cứu lấy đời sống này? Thiết nghĩ, tri thức của loài người
dẫu thông minh đến đâu, vẫn còn bị hạn hẹp trong cái nhìn hữu ngã, vẫn
còn bị trói buộc bởi tham, sân, si. Vì vậy, tri thức ấy cũng không thể
giúp con người ra khỏi phiền muộn, hệ lụy của cuộc sống. Chính vì thế,
hơn bao giờ hết, lời dạy của bậc Giác Ngộ luôn cần thiết, luôn là giải
pháp tối ưu cho con người và xã hội trong vấn đề tìm kiếm và bảo vệ hạnh
phúc của mình, của người cũng như của toàn xã hội. Bài viết này, tác
giả xin nêu một bài kinh trong “Tạp A Hàm” nhằm chia sẻ một vài điều
giáo huấn của bậc thầy giác ngộ, để chúng ta cùng nhau suy ngẫm và thực
tập.
2. Luận giải ba pháp hành
Trong kinh “Tạp A Hàm” quyển 42, kinh số 1147 có ghi lại cuộc đối
thoại giữa Đức Phật và vua Ba Tư Nặc. Nhân chuyến vi hành khắp lãnh thổ
mà mình đang cai trị xong, với thân hình đầy bụi đất, đức vua đã đến
thăm viếng và đảnh lễ Đức Thế Tôn, cuộc đàm thoại giữa hai thầy trò được
diễn ra như sau:
Đức Thế Tôn hỏi Vua: Này Đại vương ! Ta nay hỏi ông,
ông hãy tùy ý mà đáp nhé. Thí như có người từ phương Đông lại, có tín,
có duyên, chưa từng giả dối, đến tâu với vua rằng: ‘Tôi từ phương Đông
lại, thấy một núi đá, rất vuông vức to lớn, không bị đục thủng, không bị
phá hoại, cũng không xói lở, đang nghiền đất mà đến. Tất cả cây cỏ và
sanh vật đều bị nghiền nát.’ Từ phương Nam, Tây, Bắc cũng có người đến,
có tín, có duyên, chưa từng giả dối, đến tâu với vua rằng: ‘Tôi thấy một
núi đá rất vuông vức to lớn, không bị đục thủng, không bị phá hoại,
cũng không xói lở, đang nghiền đất mà đến. Tất cả cây cỏ và sanh vật đều
bị nghiền nát.’ Ý Đại vương thế nào? Sự việc khủng bố, hiểm ác, chết
chóc lớn lao như vậy xảy đến; vận của chúng sanh đã hết; sanh làm người
thật khó. Đại vương sẽ phải tính sao?”
Vua bạch Phật: “Nếu như vậy, thì không còn cách tính nào khác, chỉ còn cách tu thiện, chuyên tâm phương tiện nơi Pháp luật của Phật.”
Phật bảo Đại vương: “Cớ sao lại nói là những chuyện
hiểm ác khủng bố chợt xảy đến cho đời, vận của chúng sanh đã hết, thân
người khó được; chỉ còn phải thực hành theo pháp, hành nghĩa, hành
phước, phải chuyên tinh phương tiện nơi giáo pháp của Phật? Vì sao không
nói, địa vị của Quán đảnh vương, đứng đầu trên mọi người, uy quyền tự
tại, thống lãnh đại địa, sự vụ, nhân dân để đối phó sự việc ấy?”
Vua bạch Phật: “Bạch Thế Tôn, đó là nói khi thanh
bình, thì vương vị quán đảnh là đứng đầu mọi người, thống lãnh cõi đất,
để doanh lý mọi việc. Dùng tài sản đấu tài sản. Dùng voi đấu voi. Dùng
xe đấu xe. Dùng bộ đấu bộ. Hoặc thắng hoặc bại, ngay lúc đó không thể tự
chủ. Cho nên, con nói đến khi sự việc hiểm ác khủng bố xảy đến, chúng
sanh vận cùng, thân người khó được; khi đó không có kế nào khác, mà chỉ
còn có thực hành theo pháp, hành nghĩa, hành phước, chuyên tâm quay về
nương tựa nơi giáo pháp của Phật.”
Phật bảo Đại vương: “Đúng thế! Đúng thế! Thường
xuyên bị nghiền nát, nghĩa là kiếp ác, già, bệnh, chết, khổ, não nghiền
nát chúng sanh, sẽ phải làm sao? Chính là phải tu nghĩa, tu pháp, tu
phước, tu thiện, tu từ, ở trong Phật pháp tinh cần phương tiện.” Cuộc
đối thoại được kết thúc trong sự hoan hỷ của Đức Vua. [i]
Thông qua sự trao đổi giữa Đức Phật và vua Ba Tư Nặc, chúng ta không
khó để nhận ra rằng, nếu thế giới này băng hoại, mạng sống của con người
giảm dần bởi sanh, già, bệnh, chết, hoặc chuyện hiểm ác xảy đến với
cuộc đời này, chúng ta không thể dùng quyền uy, thế lực hay phép thuật,
bùa chú…mà có được sự thanh bình và hạnh phúc. Hạnh phúc chỉ thực sự có
mặt khi tự thân mỗi người phải tự hoàn thiện mình bằng đời sống thánh
thiện. Có như vậy, xã hội mới có bình an, quốc độ mới được thanh bình.
Trong bài kinh vừa dẫn trên có điểm đáng chú ý trong lời dạy của Đức
Phật, khi gặp sự khó khăn của đời sống, cho đến tiến trình bắt đầu và
kết thúc của một sinh mệnh an lạc hay đau khổ, được thiết lập trên sự tu
tập chuyển hóa của mỗi tự thân thông qua ba pháp hành. Đó chính là thực
hành pháp, thực hành nghĩa và thực hành phước. dưới đây đi vào phân
tích ba pháp hành này.
2.1. Thực hành pháp
Pháp ở đây được hiểu là chánh pháp, chánh pháp là con đường sáng, là
phương pháp thực tập để mỗi người tự mình có thể đoạn tận những hạt
giống khổ đau, loại trừ những tâm niệm bất thiện, hướng về đời sống
thánh thiện. Trong kinh Tạp A Hàm, đức Thế Tôn đã định nghĩa về chánh
pháp như sau: “Thế Tôn bảo các Tỳ-kheo: Có phi pháp, có chánh pháp. Hãy
lắng nghe và suy nghĩ kỹ, Ta sẽ vì các ông giảng nói: Thế nào là phi
pháp? Sát sanh, tà kiến. Đó gọi là phi pháp.... cho đến. Thế
nào là chánh pháp? Không sát sanh, chánh kiến. Đó gọi là chánh pháp.”
[ii] Như vậy, ở đây chúng ta thấy được rằng chánh pháp, là những pháp
hành mà đức Phật dạy chúng ta để thực tập trong đời sống hằng ngày như:
không sát sanh, không trộm cướp, cũng như bát chánh đạo… Những chánh
pháp này có tác dụng giúp chúng ta đoạn trừ mầm móng khổ đau, đưa đến
chân hạnh phúc. Nhưng để có được hạnh phúc này không ai khác tự thân
chúng ta phải là người hiểu pháp, thực hành pháp và chứng đạt pháp. Từ
luận điểm này, chúng ta có thể suy luận rằng, nếu cuộc đời này ai trong
mỗi chúng ta đều thực hành chánh pháp, thì tự thân an vui, gia đình hạnh
phúc, xã hội thanh bình, đất nước thịnh trị, quốc độ thanh tịnh, cho
đến thành tựa thánh quả. Đúng như lời Thế Tôn đã khẳng định: “Duy chỉ có
Chánh pháp khiến Ta tự giác, thành tựu Bồ-đề. Ta hãy cung kính tôn
trọng, phụng sự, cúng dường pháp ấy, nương vào đó mà sống. Vì sao? Chư
Như Lai, Ứng Cúng, Đẳng Chánh Giác quá khứ cũng cung kính, tôn trọng,
phụng sự, cúng dường Chánh pháp, nương vào đó mà sống. Chư Như Lai, Ứng
Cúng, Đẳng Chánh Giác vị lai cũng sẽ cung kính, tôn trọng, phụng sự,
cúng dường Chánh pháp, nương vào đó mà sống.”[iii]
2.2. Thực hành nghĩa
Theo bản Hán tạng là “行義”, thầy Tuệ Sỹ dịch là “thực hành nghĩa”,
ngài Bhikkhu Bodhi dịch Anh ngữ “to live righteously”(sống ngay thẳng,
đạo đức, công bằng, chính đáng, hành động đúng lý), Hòa Thượng Minh Châu
dịch là “sống chơn chánh”. Như vậy, ở đây chúng ta có thể hiểu “thực
hành nghĩa” là thực hành đời sống chân chính, đời sống đạo đức, đời sống
hướng thượng. Đây cũng chính là chánh mạng trong bát chánh đạo. Định
nghĩa về chánh mạng được đức Phật dạy trong kinh văn như sau: “Này chư
Hiền, thế nào là chánh mạng? Này chư Hiền, ở đây vị Thánh đệ tử từ bỏ tà
mạng, sinh sống bằng chánh mạng. Này chư Hiền, như vậy gọi là chánh
mạng.” (‘Kinh Phân Biệt Về Sự Thật’ (Saccavibhangacittasuttam),[iv] hay
trong ‘Đại Kinh Xóm Ngựa’ (Maha ssapura suttam) đức Phật giải thích từ
chánh mạng như sau: “Sanh mạng chúng ta phải được thanh tịnh, minh
chánh, cởi mở, không có tỳ vết, che giấu. Nhưng chúng ta không vì sanh
mạng thanh tịnh ấy, khen mình, chê người". Như vậy, này các Tỷ-kheo, các
Ông cần phải tu tập”. [v]
Y cứ vào nội dung của kinh văn chúng ta có thể hiểu được rằng, chánh
mạng là từ bỏ đời sống tà mạng; đời sống chánh mạng là đời sống phải
được xây dựng trên nền tảng thanh tịnh, minh chánh, cởi mở, không có tỳ
vết, không che giấu lỗi lầm.[vi] Như vậy, dựa vào hai đoạn kinh văn
chúng ta có thể quy nộp theo logic nhân quả, đó là hành giả từ bỏ đời
sống tà mạng (nhân), thực hành đời sống chánh mạng, được thành tựu thanh
tịnh, minh chánh, cởi mở, không có tỳ vết, che giấu (quả) .
Dựa vào sự giảng dạy trong kinh văn, thiết nghĩ rằng nếu chúng ta
biết thực hành về nghĩa, tức là thực hành đời sống chánh mạng, thì chúng
ta có thể cứu lấy đời sống của mình và tất cả mọi người.
2.3. Thực hành phước
Thực hành phước là một việc làm cần thiết trong trong đời sống hiện
tại cũng như tương lai cho tất cả phàm phu chúng sanh cho đến quả vị Bồ
tát. Tạo lập phước đức chính là xây dựng một đời sống đẹp cho chính mình
và tha nhân, đây cũng chính là một pháp tu trong Phật giáo. Trong Phật
giáo, nói đến nội dung thực hành phước được ghi lại rải rác rất nhiều
trong các kinh luận, từ những việc nhỏ như: chia sẻ bố thí cứu giúp cuộc
đời, các vật dụng cơm ăn, áo mặc, tiền bạc, cho đến việc lớn như bố thí
chánh pháp, bằng cách dạy dỗ chánh pháp cho mọi người, để mọi người có
hướng đi an lạc giải thoát. Theo tư tưởng của các vị luận sư trong “ A
tỳ đạt ma” giải thích về việc thực hành phước có nhiều cách, vì thương
tưởng muốn đem lại lợi lạc cho chúng sanh, thỉnh chư Phật chuyển pháp
luân; chúng hữu tình đang chìm đắm trong mê, khiến chúng tu tập tìm về
bến giác; chúng hữa tình chưa đủ giới đức, khiến cho đủ giới đức; chúng
hữu tình chưa có trí tuệ, dạy dỗ khai mở trí tuệ… đây chính là thực hành
phước. Nhưng có điểm đáng chú ý ở trong lập luận của các vị luận sư, là
thực hành việc phước thiện phải được thiết lập trên nền tảng thanh tịnh
của thân, khẩu, ý ba nghiệp. Nếu thực hành phước không được thanh tịnh
trong ba nghiệp thì vẫn không thể gọi là thực hành phước, mà trái lại có
thể sanh trưởng tội lỗi. [vii] luận điểm này của các vị luận sư, có thể
nói là kế thừa tư tưởng của đức Phật trong kinh “Tạp A Hàm”, Thế Tôn đã
dạy như sau: Đức Phật bảo Bà-la-môn: “Có một thứ đại tế đàn, tuy người
chủ thực hành việc bố thí làm phước nhưng lại sanh ra tội, gặt hái quả
báo bất thiện, bị đâm chém bởi ba thứ đao kiếm. Ba loại ấy là: đao kiếm
bởi thân, đao kiếm bởi miệng, đao kiếm bởi ý. “Thế nào là đao kiếm bởi
ý, sanh ra các quả báo khổ? Như có một người chủ tổ chức đại tế đàn, suy
nghĩ: “Ta tổ chức đại hội tế tự, cần phải giết ngần ấy trâu đực mập
mạnh, trâu cái, trâu con, dê tơ, cùng nhiều loài sanh vật nhỏ bé khác.”
Đó gọi là đao kiếm bởi ý, sanh ra các quả báo khổ. Tuy người thí chủ có ý
nghĩ là làm các việc bố thí và cúng dường như vậy, nhưng thật ra việc
làm ấy sanh ra tội. “Thế nào là đao kiếm bởi miệng, sanh ra các quả báo
khổ? Có một người chủ tổ chức lễ hội lớn, bảo như vầy: “Nay, ta tổ chức
lễ hội lớn tế lễ, các ngươi phải giết ngần ấy trâu đực mập mạnh, cho đến
ngần ấy sanh vật nhỏ bé khác.” Đó gọi là đao kiếm bởi miệng, sanh ra
các quả báo khổ. Người chủ lễ hội lớn, tuy làm các việc bố thí, cúng
dường, nhưng thật ra việc làm ấy sanh ra tội. “Thế nào là đao kiếm bởi
thân, sanh ra các quả báo khổ? Có người chủ lễ hội lớn, tự tay mình giết
trâu đực, cho đến giết hại các loài sanh vật bé nhỏ khác. Đó gọi là đao
kiếm bởi thân sanh ra các quả báo khổ. Người chủ lễ hội lớn này, tuy
nghĩ đến các việc bố thí, cúng dường, nhưng thật ra việc làm ấy sanh ra
tội.[viii] Qua sự phân tích trên, chúng ta thấy rằng việc thực hành
phước thiện là cần thiết trong đời sống, là chất xúc tác để tạo nên đời
sống thanh bình cho đời này và ngay cả đời sau. Cho nên đây cũng chính
là lý do tại sao thực hành phước là nhân tố cứu giúp đời sống này.
3. Kết luận
Từ những luận bàn trên, xin được đúc kết vài điều sau:
Ước mơ muôn thuở của nhân loại là cuộc sống hạnh phúc, gia đình ấm
no, xã hội thanh bình, thế giới an vui. Nhưng để chuyển hóa những ước mơ
đó thành hiện thực, thì không gì khác ngoài việc thực hành chánh pháp,
sống đời sống chân chánh, chia sẻ phước thiện đến với tất cả mọi người.
Thế giới chúng ta đang sống, đang từng ngày thay đổi, bạo lực gia
đình, bạo lực học đường, bạo lực xã hội…đang ầm ỉ lan chảy và lưu chuyển
trên mọi lối đi. Để chuyển hóa những khó khăn này, là trách nhiệm của
ai? Trách nhiệm của tất cả chúng ta. Vậy hãy cùng nhau sống trong tuệ
giác của chánh pháp, sống trong con đường thánh thiện và truyền trao cho
nhau thông điệp của tình thương.
Niềm hỷ lạc trong hiện tại cũng như tương lai không hiện hữu trong
bóng đêm của chấp ngã, của lòng đố kỵ, lòng tranh chấp tị hiềm. Niềm hỷ
lạc chỉ đến, đang đến, sẽ đến với những ai biết sống tỉnh giác trong
chánh pháp, biết giữ gìn đời sống thánh thiện.
Virginia Beach 1/10/2012
Thích Chúc Đại
[i] 《雜阿含經》卷42,1147經, 大正2, no. 99, p. 305, b6-c20.
Việt dịch,Thích Tuệ Sỹ, Tạp A Hàm Kinh, quyển số 42, kinh 1147, NXBTGHN 2005,trang 174-177.
Ngoài ra có thể so sánh đối chiếu :
《別譯雜阿含經》卷4, 70經, 大正2, no. 100, p. 398, c9-p. 399, a18.
Pāli, S.3.25. Pabbatūpamā. Biệt dịch, №100(70). http://studies.worldtipitaka.org/node/273750
HT. Minh Châu dịch, “Kinh Tương Ưng Bộ” tập 1, phẩm thứ 3, Ví dụ hòn núi, ấn hành, 2000, trang 223~228..
[ii]《雜阿含經》卷37, 1060經,大正02, no. 99, p. 275, c16-21。
Việt dịch, Thích tuệ sỹ, Kinh Tạp A Hàm, kinh 1060, quyển 35, trang
《雜阿含經》卷28, 769經 大正02, no. 99, p.200,c11-p.201,a8。
《阿毘達磨集異門足論》卷12,五法品,大正26, no. 1536, p. 417, a12-13。
《瑜伽師地論》卷25,大正30, no. 1579, p. 418, b22-23。
Việt dịch, Thích tuệ sỹ, Kinh Tạp A Hàm, kinh 1060, VNCPHVN 1995,trang 624-625.
[iii] 《雜阿含經》卷44, 1188經,大正02, no. 99, p. 322, a1-7.
[iv] HT. Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ” tập 3, VNCPHVN ấn hành, 2001, trang 565.
[v] HT. Minh Châu dịch, “Kinh Trung Bộ” tập 1, VNCPHVN ấn hành, 1992, trang 596~597..
[vi] 《中阿含經》卷7, 舍梨子相應品,分別聖諦經第十一,大正01, no. 26, p. 469, b6-13。
《雜阿含經》卷28:785經, 大正02, no. 99, p. 203, c3-13。
[vii] 《阿毘達磨大毘婆沙論》卷177, 大正T27, no. 1545, p. 890, a5-b4。
《阿毘達磨法蘊足論》卷11, 大正T26, no. 1537, p. 506, a15-p. 507, b5。
[viii] 《雜阿含經》卷4, 93 經,大正T02, no. 99, p. 24, c7-23。
Việt dịch, Thích Tuệ Sỹ, Tạp A Hàm Kinh, quyển số 4, kinh 93,NXBTGHN 2002, trang 196-199.