Nếu pháp giới là toàn thân Phật Tỳ-lô-giá- na, tại sao “có những
sự khác biệt như khổ vui, tốt xấu, thọ ít hưởng nhiều, tất cả nghiệp
và báo?”. Đây là câu hỏi Đức Văn-thù hỏi thay cho chúng sanh chúng ta
trong chương Bồ-tát vấn minh, thứ 10.
Bồ-tát Giác Thủ trả lời bằng kệ:
Cứ theo nghiệp đã tạo
Thọ quả báo như vậy
Đều không có tác giả
Đây là lời chư Phật.
Như mặt gương sáng sạch
Tùy theo cảnh đối tượng
Hiện bóng sai khác nhau
Tánh nghiệp cũng như vậy.
Như trên ruộng gieo giống
Chúng đều chẳng biết nhau
Tự nhiên mọc lên cây
Tánh nghiệp cũng như vậy.
Như nhà ảo thuật giỏi
Ở tại ngã tư đường
Hiện ra những sắc tướng
Tánh nghiệp cũng như vậy.
Như máy móc người gỗ
Hay vang ra các tiếng
Nó không ngã, ngã sở
Tánh nghiệp cũng như vậy…
Bồ-tát Văn-thù lại hỏi: “Chỗ giác ngộ của Như Lai chỉ là một pháp duy
nhất, sao lại bảo là có vô lượng pháp, hiện vô lượng cõi, dạy vô lượng
chúng, diễn vô lượng âm, hiện vô lượng thân, hiển thị vô biên các thứ
cảnh giới. Nhưng trong pháp tánh, các tướng sai biệt này đều bất khả
đắc”.
Bồ-tát Đức Thủ trả lời: Nghĩa của Phật tử nói Rất sâu khó rõ được Người trí biết nghĩa này
Thường chứa công đức Phật. Như đất chỉ một tánh Mọi loài ở riêng chỗ
Đất không nghĩ đồng khác Pháp chư Phật như vậy. Cũng như
một biển lớn Ngàn vạn làn sóng khởi Nước biển vẫn duy nhất Pháp chư
Phật như vậy… Mặt trời không mây che
Chiếu sáng khắp mười phương Quang minh không sai khác Pháp chư Phật như vậy…
Ví như đại Phạm vương Ứng hiện khắp đại thiên Thân ngài vẫn không khác Pháp chư Phật như vậy.
Qua những đoạn kệ trên, chúng ta thấy tất cả là một Phật bổn
nguyên Tỳ-lô-giá-na, không sanh không diệt, không đến không đi, không
đoạn không thường, không một không khác, mà tùy theo tâm thức nhiễm ô
nghiệp báo thấy có sai khác, đến đi, sanh diệt… thành thế giới chúng
sanh của mình.
Tất cả chỉ là “một vị”, một pháp thân, một Tâm, một Trí Huệ, từ xưa đến nay vẫn như vậy:
Lại như nước một vị Nhân đồ đựng có khác Phật phước điền vẫn một
Do tâm người thành khác… Thưa ngài, Pháp thường vậy Pháp Pháp vương duy nhất Tất cả chư Như Lai
Một đạo mà giải thoát. Thân của tất cả Phật Chỉ là một Pháp thân Một Tâm, một Trí Huệ Lực, Vô úy cũng vậy.
Chỉ có người tâm ý đã thanh tịnh mới thấy được cái Thanh Tịnh duy nhất và vốn toàn thiện, viên mãn này:
Tất cả các cõi Phật Trang nghiêm
đều viên mãn Tùy chúng sanh sai khác Thấy chẳng đồng như vậy. Cõi Phật
cùng thân Phật Chúng hội và ngôn thuyết Các Phật pháp như vậy
Chúng sanh chẳng thấy được. Tâm ý đã thanh tịnh
Hạnh nguyện đều đầy đủ Người sáng suốt như vậy Mới có thể thấy được.
Cái thấy của chúng sanh, các kinh nghiệm của mắt tai mũi lưỡi thân ý
của chúng sanh là cái thấy, kinh nghiệm bị chia cắt nên sai lầm. Sự chia
cắt căn bản là là sự ngăn cách giữa một chủ thể (năng) phân biệt hư
vọng nhìn thấy những đối tượng (sở) có ra do tâm thức phân biệt hư vọng.
Khi biết các căn là vô tự tánh, là tánh Không, thì đó là pháp nhãn
thanh tịnh: chỉ một tánh Không thông suốt tất cả mọi pháp. Nếu thấy được
bản tánh sâu xa của các giác quan là pháp tánh vô tự tánh, vô sanh, thì
thấy được cái Chân thật. Bồ-tát Giác Thủ nói:
Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân
Tâm ý, sáu tình căn
Do đây thường lưu chuyển Nhưng vẫn không năng chuyển. Pháp tánh vốn vô sanh
Thị hiện mà có sanh
Trong đây không năng hiện Cũng không vật sở hiện. Mắt, tai, mũi, lưỡi, thân
Tâm ý, sáu tình căn Tất cả rỗng, vô tánh Vọng phân biệt mà có. Cứ đúng lý quan sát Tất cả đều vô tánh
Pháp nhãn chẳng nghĩ bàn
Đấy là thấy chân thật.
Trở lại cội nguồn chân thật của các giác quan là pháp tánh vô sanh,
vô tự tánh, bấy giờ thấy “thật tướng của các pháp” là Chân Như, là Như
Lai tạng, là Phật tánh. Thế nên, kinh Lăng Nghiêm nói tánh thấy, tánh nghe, tánh tri giác… là Phật tánh hay tánh giác ứng hiện nơi mỗi căn:
Xoay nghe thoát khỏi tiếng
Giải thoát đâu có danh
Một căn đã về nguồn
Sáu căn thành giải thoát.
Sáu căn cũng như thế
Vốn y một Tinh Minh
Phân thành sáu hòa hiệp
Một chỗ đã về nghỉ
Sáu dụng đều chẳng thành
Một niệm trần cấu tiêu
Thành Viên Minh tịnh diệu
Còn trần là hữu học
Sáng tột tức Như Lai.
Khi đạt đến cội nguồn Chân Không thì tất cả là Diệu Hữu. Khi tâm
thanh tịnh, nghĩa là đạt đến cội nguồn tánh Không của nó, thì tất cả
các pháp, tánh tướng đều thanh tịnh. Kinh Hoa Nghiêm hay lấy
ví dụ là tấm gương, viên ngọc trong suốt, lưới trời Đế-thích… để chỉ
tâm. Khi kinh nghiệm được cội nguồn của các bóng trong gương chính là
gương, khi tấm gương tâm đã trong sáng thanh tịnh, thì các bóng cũng
trong sáng thanh tịnh.
Duy thức, Không tông, Thiền tông, Mật giáo cũng cùng quan điểm và
cách thực hành tương tự: đi trở lại nguồn gốc hay bản tánh của thế giới
bên ngoài và thế giới bên trong. Nguồn gốc hay bản tánh ấy là các vị
Phật bổn nguyên, các vị ấy vốn là tánh Không, quang minh, giải thoát
và giác ngộ bổn nguyên, là Chân Không Diệu Hữu bổn nguyên.
Theo hệ thống Mật giáo thì:
Sắc uẩn, thủy đại, phiền não là sân, có bản tánh là Bất Động Phật hay A-súc-bệ Phật, Đại viên cảnh trí hay Kim cương trí.
Thọ uẩn, địa đại, phiền não là kiêu căng, có bản tánh là Bảo Sanh Phật, Bình đẳng tánh trí.
Tưởng uẩn, hỏa đại, phiền não là tham, có bản tánh là A-di-đà Phật, Diệu quan sát trí.
Hành uẩn, phong đại, phiền não là đố kỵ, có bản tánh là Bất Không Thành Tựu Phật, Thành sở tác trí.
Thức uẩn, không đại, phiền não là si, có bản tánh là Tỳ-lô-giá-na
Phật, Pháp giới thể tánh trí, là nền tảng của bốn trí trước và khiến bốn
trí trên là một.
Mật giáo gọi là đi vào mạn-đà-la Ngũ Trí Như Lai, tức là nhập Pháp
giới. Duy thức gọi là chuyển tám thức thành bốn trí, đưa thức trở về
bản tánh của chúng là trí. Do chuyển các căn thành vô lậu, các thức,
các trần thành thanh tịnh mà có quốc độ thanh tịnh. Thiền tông, mà
đại diện là Lục tổ Huệ Năng, nói là “hiểu thấu ba thân, bốn trí” (Phẩm
Cơ Duyên).
Tỳ-lô-giá-na xuất sanh Ngũ Trí Như Lai, là nền tảng thanh tịnh của các căn. Nền tảng của căn, trần, thức là Phật Tỳ-lô-giá-na.
Ở kinh Hoa Nghiêm, đi đến mức rốt ráo của sự vô ngại, tự do,
giải thoát, nên sắc vô ngại với sắc, với thanh hương… với mắt tai mũi
lưỡi… Như Bồ-tát Quan Thế Âm ngàn mắt ngàn tay, mỗi taycó một con mắt.
Trong chương Ly thế gian, thứ 38, Bồ- tát có mười loại thân, mười chân,
mười tay, mười đầu, mười mắt, mười tai, mười mũi…
Sự viên dung của các giác quan, các trần, các thức, sự vô ngại rốt ráo của Phật được nói đến trong chương Phật bất tư nghì pháp, thứ 33:
“Tất cả chư Phật hay dùng nhãn xứ làm nhĩ xứ Phật sự, hay dùng nhĩ xứ
làm tỷ xứ Phật sự, hay dùng tỷ xứ làm thiệt xứ Phật sự, hay dùng
thiệt xứ làm thân xứ Phật sự, hay dùng thân xứ làm ý xứ Phật sự, hay
dùng ý xứ trong tất cả thế giới trụ thế xuất thế các thứ cảnh giới,
trong mỗi mỗi cảnh giới hay làm vô lượng Phật sự rộng lớn. Đây là pháp
tự tại thứ tám”.
Trở lại với bản tánh Không, quang minh, vốn sẵn đủ là giải thoát khỏi
thế giới “biển nghiệp” để thấy và sống thế giới “biển công đức và trí
huệ” vô lượng của Phật:
Nếu người đã an trụ
Các hạnh nguyện Phổ Hiền Thấy những quốc độ kia Thần lực của chư Phật.
Nếu người có tin hiểu Cho đến các đại nguyện Đầy đủ trí huệ sâu Thông đạt tất cả pháp Có thể nơi thân Phật Mỗi mỗi quan sát được
Sắc, thanh không chướng ngại
Rõ thấu được các cảnh. Có thể nơi thân Phật
An trụ cảnh trí huệ Mau vào địa Như Lai Trùm khắp cả pháp giới. Số vi trần Phật sát Những quốc độ như vậy
Hay khiến trong một niệm
Hiện trong mỗi vi trần. Tất cả những quốc độ Cho đến sự thần thông Đều hiện trong một cõi Lực Bồ-tát như vậy.
(Như Lai hiện tướng, thứ 2)
Căn, trần, thức khi ở trong biển pháp giới thì vô ngại và vô lượng vì
đây là biển quả của Phật Tỳ-lô-giá-na. Để đi vào pháp giới vô ngại ấy,
người ta phải thực hành hạnh Phổ Hiền:
Thường hành hạnh Phổ Hiền
Rộng độ các quần sanh
Thân nghiệp không chướng ngại
Ngữ nghiệp đều thanh tịnh
Ý hành cũng thanh tịnh
Ba đời đều vậy cả
Bồ-tát tu như vậy
Rốt ráo đạo Phổ Hiền Xuất sanh trí thanh tịnh Chiếu khắp cả pháp giới… Vào sâu các thế giới
Một thân vô lượng cõi
Một cõi vô lượng thân
Ba đời những Phật pháp Từ nơi pháp giới sanh Đầy khắp Như Lai địa. Niệm thanh tịnh vô ngại Huệ vô biên vô ngại… Tạng trí huệ vô tận
Tất cả đều được biết Xuất sanh mắt vô ngại Tai, mũi, thân vô ngại Lưỡi rộng dài vô ngại
Hay khiến chúng hoan hỷ.
(Phổ Hiền hạnh, thứ 36)
Hạnh Phổ Hiền không ra ngoài biển pháp giới hay biển quả của Phật
Tỳ-lô-giá-na. Thế nên, khi thực hành hạnh Phổ Hiền, chúng ta cần tin
chắc là mình đang làm trên và trong biển quả vốn đã viên thành của Phật.
Như thế dù sự vô ngại của pháp giới có rợn ngợp đến đâu chăng nữa cũng
có được sự yên tâm, không mất kiên trì tu tập.
Mục tiêu của người tu hành là càng lúc càng nhận ra thế giới mình
đang sống trong đó chính là pháp giới vô ngại và vô lượng, nơi Phật vốn
đầy khắp, đồng nhất với tất cả vũ trụ và chúng sanh trong từng vi trần,
trong từng khoảnh khắc. Tất cả những gì chúng ta thấy nghe hay biết,
trong thật tướng của chúng, đều là Phật, bởi vì tất cả các giác quan,
các đối tượng của giác quan, đều có nguồn gốc, nền tảng là Phật bổn
nguyên Ngũ Trí Như Lai.
Vì đang sống trong biển Phật quả như vậy, nên chỉ một hồi hướng cũng liền đưa chúng ta bình đẳng với tất cả pháp giới:
“Bồ-tát lại nguyện do căn lành hồi hướng này khiến tôi được phước đức
bình đẳng, trí huệ bình đẳng, lực bình đẳng, vô úy bình đẳng, thanh
tịnh bình đẳng… Tất cả các pháp trên đều được tròn đủ. Tôi được như thế
nào, nguyện tất cả chúng sanh cũng đồng được như tôi…
“Như pháp giới một tánh, thiện căn hồi hướng cũng như vậy, đồng một
trí tánh với tất cả chúng sanh. Như pháp giới tự tánh thanh tịnh, thiện
căn hồi hướng cũng như vậy, làm cho chúng sanh được rốt ráo thanh tịnh.
Như pháp giới tùy thuận, thiện căn hồi hướng cũng như vậy, làm cho
tất cả chúng sanh đều tùy thuận hạnh nguyện Phổ Hiền. Như pháp giới
trang nghiêm, thiện căn hồi hướng cũng như vậy, làm cho tất cả chúng
sanh dùng hạnh Phổ Hiền mà trang nghiêm…” (Thập Hồi hướng, thứ 25).
Khi đã được đồng với pháp giới và chúng sanh ở mức độ nào, chúng
ta bắt đầu thấu hiểu sự đồng nhất rốt ráo của pháp giới Phật. Chính sự
đồng nhất rốt ráo này hiển bày cái dụng vô ngại của căn, trần, thức đang
hiện hành của chúng ta:
Ở trong nhãn căn nhập chánh định
Nơi trong sắc trần từ định xuất
Thị hiện tánh sắc bất tư nghị
Tất cả trời người chẳng biết được.
Ở trong sắc trần nhập chánh định
Nơi nhãn xuất định tâm chẳng loạn
Nói nhãn vô sanh và vô khởi
Tánh Không, tịch diệt, và vô tác.
Ở trong nhĩ căn nhập chánh định
Nơi trong thanh trần từ định xuất
Phân biệt tất cả tiếng, ngữ ngôn
Chư thiên, người đời chẳng biết được.
Ở trong thanh trần nhập chánh định
Nơi nhĩ xuất định tâm chẳng loạn
Nói nhĩ vô sanh và vô khởi
Tánh Không, tịch diệt, và vô tác…
(Hiển Thủ, thứ 12)
Cho đến các đại địa, thủy, hỏa, phong, không… tất cả đều xuất nhập vô ngại, như chính pháp giới sự sự vô ngại:
Trong một vi trần nhập chánh định
Trong tất cả trần từ định xuất
…
Như mặt nhật nguyệt trên hư không Bóng tượng cùng khắp cả mười phương Trong nước ao hồ đầm chậu chén
Sông ngòi biển lớn đều hiện cả… Như nơi nước trong, bóng
vũ khí Các loại sai khác không xen tạp Đao kiếm cung tên rất nhiều thứ
Mão giáp xe cộ chẳng phải một Tùy kia bao nhiêu tướng sai khác Nước
trong hiện rõ tất cả bóng
Nhưng nước vốn tự không phân biệt.
(Hiền Thủ, thứ 2)
Khi đạt đến cội nguồn hay bản tánh của mọi sự và cũng là của tâm
chúng ta là Phật Tỳ-lô-giá-na hay pháp giới thể tánh trí, thì các đại
đất, nước, lửa, gió, không, thức, các căn mắt tai mũi lưỡi thân ý, sắc
thanh hương vị xúc pháp… tất cả đều là sự biểu lộ, hiện bày của Phật
Tỳ-lô-giá-na, đều thanh tịnh, giải thoát và trang nghiêm không thể
nghĩ bàn. Tất cả các đại, các căn, các trần, các thức đều là Phật.
Trong tất cả quốc độ
Khắp diễn tiếng vi diệu
Ca ngợi công đức Phật Pháp giới đều đầy khắp. Phật
dùng pháp làm thân Thanh tịnh như hư không Hiện ra những sắc tướng Đều
gồm trong pháp tánh Nếu có người tin mừng
Và được Phật nhiếp thọ Nên biết người như vậy
Sanh trí huệ biết Phật. Những người trí kém ít Không biết được pháp này
Người mắt huệ thanh tịnh Thấy tất cả rõ ràng
…
Trong tất cả sự vật
Pháp môn nhiều vô biên
Thành tựu Nhất thiết trí
Nhập vào biển pháp sâu
An trụ quốc độ Phật
Hiện nơi tất cả chỗ
Không đến cũng không đi Pháp chư Phật như vậy. Tất cả biển chúng sanh Thân Phật hiện như bóng Tùy họ hiểu sai khác
Đều được thấy Đạo sư. Trong tất cả chân lông Mỗi mỗi hiện thần thông Tu hạnh nguyện Phổ Hiền
Người thanh tịnh được thấy. Phật dùng mỗi mỗi thân Chốn chốn đều dạy pháp Khắp cùng toàn pháp giới Nghĩ bàn chẳng thể đến.
(Như Lai hiện tướng, thứ 2)
Tất cả đều là Phật pháp, đều là quang minh, khi các căn và các thức đã thanh tịnh:
“Tôi sẽ khắp vì tất cả thế gian mà thực hành hạnh Bồ-tát, làm quang
minh thanh tịnh của tất cả pháp, chiếu sáng tất cả Phật pháp. Lúc
phát tâm này quyết định không nghi. Lại nghĩ rằng tôi sẽ biết tất cả
pháp đều là Phật pháp, tùy tâm chúng sanh mà vì họ diễn thuyết đều
khiến khai ngộ. Lúc phát tâm này quyết định không nghi” (Ly thế gian, thứ 38).
Phát tâm và thực hành hạnh Bồ-tát như vậy là sống trong biển quả, và
dần dần thể nghiệm pháp giới biển quả ấy bằng các căn và các thức thanh
tịnh. Các căn và các thức vốn thanh tịnh vì chúng là sự biểu lộ của
Ngũ Trí Như Lai. Do đó, sự tu hành được chỉ dạy trong kinh Hoa Nghiêm là sự tu hành trong Quả, hay còn gọi là Quả thừa.■
Văn Hoá Phật Giáo số Xuân 2015 218-219