Sau khi Phật nhập Niết Bàn, khoảng ba
bốn trăm năm, do trong nội bộ Phật giáo có ý kiến bất đồng mà hình thành
hai hệ phái lớn : Một hệ phái gồm các bậc tuổi cao, và có tính bảo thủ
gọi là Thượng tọa bộ. Một hệ phái thứ hai gồm những tăng sĩ trẻ tuổi, có
đầu óc tân tiến, gọi là Đại chúng bộ. Về sau, Thượng tọa bộ được truyền
bá hướng về phương nam, đến Tích lan. Thượng Tọa Bộ dùng tiếng Pali ở
phương nam để ghi chép kinh điển.
Vì vậy, về sau cũng gọi Thượng tọa bộ là
Phật giáo theo ngữ hệ Pali. Còn Đại chúng bộ thì có một nhánh truyền
lên phía bắc Ấn Độ, tuy nó không trực tiếp sản sinh ra Phật giáo đại
thừa, nhưng chính trong những khu vực thịnh hành của Đại chúng bộ, đã
xuất hiện ra Phật giáo đại thừa.
Trên đây chỉ bàn đại khái về sự phân bố
địa lý của Phật giáo Bắc truyền và Nam truyền. Nhưng nếu, phân tích sâu
hơn các sử liệu, thì thấy Phật giáo Nam truyền đến Miến Điện sớm nhất
lại là Phật giáo Đại thừa theo văn hệ chữ Phạn. Phật giáo Nam phương đầu
tiên theo đường biển đến Trung Quốc cũng là Đại thừa giáo. Ngược lại,
trong Phật giáo Bắc truyền cũng có thế lực khá mạnh của Phật giáo Tiểu
thừa.
Phật giáo Đại thừa tuy bắt nguồn từ thời
đức Thích Ca Thế Tôn còn tại thế, nhưng sau khi Phật nhập diệt, lại rất
ít được Tăng đoàn Tỷ Khiêu coi trọng và phát huy. Tình hình này kéo dài
đến ba bốn trăm năm. Sau đó, vì trong nội bộ của Phật giáo Tiểu thừa,
có sự phân phái phức tạp, cho nên mới có yêu cầu Phật giáo Đại thừa xuất
hiện và phát triển, với những nhân vật đại biểu xuất sắc như Mã Minh,
Long Thụ, Vô Trước, Thế Thân v.v… Phật giáo Đại thừa dùng chữ Phạn để
sưu tập, ghi chép kinh điển cho nên cũng gọi là Phật giáo văn hệ chữ
Phạn.
Phật giáo truyền vào Trung Quốc từ thời Đông Hán, tương đương với buổi đầu của kỷ nguyên Thiên chúa.
Đại bộ phận kinh sách Phật giáo Trung
Quốc là do dịch từ kinh Phật chữ Phạn. Tuy Đại thừa rất thịnh hành trong
Phật giáo Trung Quốc, nhưng kinh điển Tiểu thừa cũng được dịch rất
nhiều. Trung Quốc có đầy đủ những bản dịch của những kinh sách Tiểu thừa
quan trọng.
Từ Ngụy Tấn, Nam Bắc triều đến Tùy và
Đường là thời đại hoàng kim của Phật giáo Trung Quốc. Có nhiều cao tăng
xuất hiện, sự giao lưu giữa Trung Quốc và Ấn Độ nối tiếp không ngừng.
Trong thời kỳ này, Phật giáo Trung Hoa nở hoa, kết trái, cả Đại thừa và
Tiểu thừa có tới 13 tông phái, sau hợp gọn lại còn 8 tông phái Đại thừa.
Tức là Thiên Thai tông, Hoa Nghiêm tông, Tam Luận tông, Duy Thức tông,
Tịnh Độ tông, Luật Tông, Thiền tông, Mật tông. Sau thời kỳ Ngũ đại do
chính trị suy vi, và hoàn cảnh xã hội thúc bách, Phật giáo Trung Quốc
lánh xa các trung tâm văn hóa, ẩn vào rừng sâu, tăng sĩ tự cày ruộng lấy
để có thóc ăn, việc nghiên cứu nghĩa lý trong kinh sách không còn thích
hợp.
Vì vậy chỉ còn lại một mình Thiền tông
chủ trương bất lập văn tự, giáo ngoại biệt truyền. Trong thời kỳ giữa
nhà Tống và nhà Đường, còn có một số thiền sư chân tu thực ngộ, có khả
năng cảm hóa được nhiều người, thông qua lời nói và việc làm bình dị và
chất phác của họ, nhưng cũng do đất mà gieo cái nhân xa cho một loại
Phật giáo "ngu muội", khiến cho sau đời Tống và đời Minh, chùa chiền và
tăng sĩ tuy nhiều, nhưng đã không còn linh hồn nữa, mà chỉ còn trơ cái
xác không mà thôi ! Giáo dục không được coi trọng, chỉ thực hành những
nghi thức theo đường mòn cũ, có rất ít cao tăng, và phần lớn tăng đồ đều
không có tri thức, tuy gọi là tu hành mà không hiểu biết thì làm sao
cảm hóa được người khác ? Do vậy, phẩm chất của tu sĩ bị hạ thấp một
cách phổ biến, rồi lại cộng thêm có sự bài bác của Nho gia, khiến cho
dân chúng đến với Phật giáo càng ngày càng không hiểu Phật giáo là thế
nào.
Đến cuối đời nhà Thanh, nhờ có những cố
gắng của cư sĩ Âu Dương Nhân Sơn, sự hướng dẫn của đại sư Thái Hư, sự nỗ
lực hoằng hóa của các cao tăng như Âu Dương đại sư, Hoằng Nhất, Hư Vân
và các vị như Âu Dương Tiệm v.v… Phật giáo Trung Quốc đã có cơ may
chuyển biến, thế nhưng vì tệ đoan còn nhiều, thay đổi một lúc cũng không
hết cho nên Phật giáo Trung Hoa kể cả Phật giáo ở Đài Loan cũng vậy,
đến nay cũng đang ở giai đoạn chuyển mình sơ bộ mà thôi.
Phật giáo Nhật Bản là do từ ở Trung Hoa
và Triều Tiên truyền vào (Phật giáo Triều Tiên cũng do từ Trung Quốc
đến), khoảng sau thế kỷ 6 T. L. Cho nên về bản chất mà nói, Phật giáo
Nhật Bản là thuộc về mô hình của Phật giáo Trung Quốc. Thế nhưng, do
trong những thế kỷ gần đây, nhờ tiếp xúc và vận dụng phương pháp nghiên
cứu của phương Tây cho nên những thành tích nghiên cứu Phật pháp theo
phương pháp mới ở Nhật, không những vượt quá Trung Quốc mà còn dẫn đầu
cả thế giới nữa.
Đấy là do các học giả Nhật Bản không
những nắm được toàn bộ kho tàng quý báu của Phật giáo Trung Quốc, mà còn
biết dựa vào văn chữ Phạn và văn chữ Pali mà truy tìm nguyên nghĩa
trong Phật giáo cơ bản (nguyên thủy), lại thêm biết sử dụng phương pháp
học tập mới, cho nên họ đạt được những thành tích huy hoàng trong lĩnh
vực nghiên cứu Phật học. Tuy nhiên Phật giáo Nhật về mặt tu trì và giải
thoát, thì còn xa mới đạt tới lý tưởng trong sáng của các nước theo Phật
giáo Nam truyền.
Vào thế kỷ thứ 9, thứ 10 sau khi Phật
nhập diệt ở Ấn Độ thế lực của Bà la môn giáo trỗi dậy, đả kích mạnh mẽ
không thương tiếc vào Phật giáo. Phật giáo đồ trong bối cảnh lịch sử lúc
bấy giờ, cũng theo thế thượng mà chấp nhận quan niệm về Phạm thiên của
Bà la môn giáo (bây giờ gọi là Ấn Độ giáo), và du nhập quan niệm đó vào
Phật giáo Đại thừa. Đấy là nguyên nhân làm cho Phật giáo vốn là thanh
tịnh, lại pha tạp các nhân tố mê tín của dân gian thế tục, thậm chí cả
đến thuật nam nữ giao hợp trong phòng kín…
Đó là thời kỳ gọi là Mật giáo đại thừa,
thời kỳ thứ ba của Phật giáo Ấn Độ. Ấn Độ giáo biết tiếp thu nhiều ưu
điểm của đạo Phật, biến thành nhân tố làm cho Ấn Độ giáo trở nên hưng
thịnh, còn Phật giáo lại tiếp thu những tín ngưỡng hạ cấp của Ấn Độ
giáo, biến chúng thành những nhân tố làm cho nội bộ Phật giáo càng ngày
càng hủ bại. Do vậy, vào khoảng cuối thế kỷ thứ 10, trước hai mũi đả
kích của Ấn Độ giáo và Hồi giáo, vừa mới xâm nhập Ấn Độ, Phật giáo bị
tàn lụi đến tuyệt tích…
Thế nhưng, như tài liệu lịch sử chỉ rõ,
từ khi đạo Phật bị tiêu vong ở Ấn Độ, thì thế lực của cả nước Ấn Độ cũng
ngày một bị suy giảm, đời sống nhân dân càng ngày càng khốn khổ, đất
nước Ấn Độ cũng không còn được thống nhất. Mãi đến năm 1950, Ấn Độ mới
giành lại được độc lập trong tay bọn thống trị người Anh. Nhưng trên
nước Ấn Độ xưa, nay đã xuất hiện thêm các quốc gia có chủ quyền như
Pakităng và NêPan…
Hiện nay, Phật giáo đồ ở Ấn Độ, được sự
bảo hộ của luật pháp và được sự đối đãi tốt của chính phủ về chính trị,
cho nên đã phát triển nhanh chóng, từ năm 1951 đến nay. Thế nhưng, trong
tổng dân số hơn 400 triệu người Ấn Độ, Phật giáo đồ chỉ chiếm một số
lượng không đáng kể, từ 10 vạn 8000 người tăng lên 325 vạn mà thôi. Đó
là điều đáng lo ngại, bởi vì có người tố cáo rằng, Ấn Độ hèn yếu là do
tín ngưỡng Phật giáo.
Phật giáo Tây Tạng tuy có quan hệ với
Trung Hoa, nhưng là do truyền bá trực tiếp từ Ấn Độ sang. Phật giáo Tây
Tạng tuy cũng là Đại thừa, nhưng chỉ là một nhánh của mật giáo Đại thừa,
do Thượng sư Liên Hoa Sinh từ bắc Ấn Độ truyền sang. Tây Tạng thời bấy
giờ có nền văn hóa lạc hậu, theo tín ngưỡng đa thần, cho nên Mật giáo
đại thừa thần bí và có nhiều linh nghiệm, rất được nhân dân Tây Tạng
hoan nghênh đặc biệt, bản thân ngài Liên Hoa Sinh là một vị cao tăng Mật
giáo, rất giỏi pháp thuật thần thông lại càng được người Tây Tạng hâm
mộ. Liên Hoa Sinh vốn là đồng môn với ba cao tăng Mật giáo đến Trung Hoa
vào đời nhà Đường, tức là Thiện Vô Úy, Kim Cương và Bất Không đều cùng
là học trò của Bồ Tát Long Trí. Vì Liên Hoa Sinh cùng với Phật giáo đồ
Tây Tạng lúc bấy giờ đều mặc áo đỏ, cho nên giáo phái của họ gọi là Hồng
giáo.
Đến thời kỳ cuối nhà Nguyên, đầu nhà
Minh, sinh hoạt của tăng sĩ Lạt Ma Hồng giáo rất hủ bại, do đó mà có đại
sư Tô Lạt Ba (Tsong Kha Pa) xuất hiện, kêu gọi tăng sĩ trở về với nếp
sống thanh tịnh, chịu sự chế tài của Luật Phật. Tông Lạt Ba chủ trương
đẩy mạnh nghiên cứu giáo lý, dùng đạo đức để cảm hóa toàn dân Tây Tạng.
Vì giáo phái ông mặc áo vàng, cho nên gọi là Hoàng giáo. Mật giáo ở Mông
Cổ, Nêpan v.v… đều là những chi nhánh của Mật giáo Tây Tạng.
Sau khi Phật diệt độ, Phật giáo Ấn Độ,
trên đại thể có thể chia làm ba thời kỳ : Thời kỳ thứ nhất, từ khi Phật
diệt độ cho tới 300 hay 400 năm, là thời kỳ của Phật giáo Thượng tọa bộ,
mà đại biểu hiện nay là Phật giáo ở các nước như Tích Lan v.v… Thời kỳ
thứ hai, từ 500/600 năm, là thời kỳ của Phật giáo Đại thừa hiển giáo
(tức không phải Mật giáo - hiển là có nghĩa lý, sách vở chép rõ ràng).
Phật giáo các nước hiện nay như Nhật
Bản, Trung Quốc là đại biểu cho Phật giáo Đại thừa hiển giáo. Thời kỳ
thứ ba là thời kỳ Mật giáo đại thừa, đại biểu hiện nay là Phật giáo Tây
Tạng. Thời kỳ này bắt đầu từ khoảng 1000 năm sau khi Phật diệt độ. Hiển
giáo thì chú trọng nghĩa lý, văn cú rõ ràng, Mật giáo thì thiên về giữ
gìn nghi thức, trì chú, đặc biệt là tin tưởng ở sự gia hộ của thần linh.
Nếu diễn đạt một cách khác thì có thể
nói thời kỳ thứ nhất là Phật giáo Thanh văn hóa. Thời kỳ thứ hai là Phật
giáo Bồ Tát hóa. Thời kỳ thứ ba là Phật giáo Thiên thần hóa. Điều cần
thiết hiện nay là triển khai một thời kỳ thứ tư, thời kỳ Phật giáo nhân
gian hóa.
Phật giáo phương Tây bắt đầu với triết
gia Đức Shopenhauer, tư tưởng ông này mang nặng sắc thái Ấn Độ, chủ yếu
là sắc thái của Áo nghĩa thư (Upanishads), và của kinh sách Phật giáo
thời kỳ đầu. Hiện nay, các nước Pháp, Anh, Bỉ, Áo, Liên Xô và cả ở Mỹ,
Ácgiăng tin, Ba Tây đều có Phật giáo đồ hoạt động, nhưng Phật giáo hoạt
động mạnh và có tiền đồ nhất là ở hai nước Đức và Mỹ. Đặc biệt là ở Mỹ,
cả Phật giáo Nam truyền, Bắc truyền và Phật giáo Tây Tạng đều có hoạt
động. Nhưng nếu nói chung cả hai châu Âu và châu Mỹ, và đứng về mặt nội
dung văn hóa mà nói thì Phật giáo Nam truyền chiếm ưu thế.
Đây là do, từ năm 1505 đến năm 1947,
Tích Lan lần lượt bị Bồ Đào Nha, rồi Ha Lan và nước Anh chiếm làm thuộc
địa, và Tăng sĩ Tích Lan dùng các nước phương Tây này như cái cầu để qua
phương Tây truyền giáo, còn Phật giáo Đại thừa ảnh hưởng tới các nước
Âu Mỹ là công lao chủ yếu của người Nhật Bản. Trong những thế kỷ gần
đây, công việc truyền bá nền văn hóa Phật giáo Trung Quốc ra nước ngoài,
lạc hậu rất nhiều so với các nước khác, thậm chí so với Tây Tạng cũng
còn thua kém. Hiện nay Hoa kiều ở Mỹ tuy nói là tin theo đại thừa Phật
giáo, nhưng lại không hiểu giáo lý của đại thừa Phật giáo là gì !
Trang Nhà Quảng Đức