Ảnh minh họa
Đức Phật cho
biết, tất cả đều theo quy luật duyên sinh nhân quả. Niệm Phật với dụng tâm sai
lầm sẽ không đạt được giá trị to lớn của pháp môn Niệm Phật, mặc dù có được
chút ít phước báo, có được sự an tâm tạm thời do niềm tin mang lại.
Do duyên nghiệp mà chúng sinh phải
mang lấy xác thân, hình hài như thế này hay thế khác, sinh ra trong hoàn cảnh
tốt đẹp hay không tốt đẹp. Nhưng dù thuộc loại chúng sinh nào trong bốn loài
noãn, thai, thấp, hóa, sống trong hoàn cảnh tốt đẹp hay không tốt đẹp, tất cả
đều không tránh khỏi tình trạng vô thường biến đổi, cho nên con người không thể
nào tránh khỏi bất mãn, thất vọng, khổ đau, không thể nào có được một đời sống
hoàn toàn tốt đẹp như ý muốn. Không ai hoàn toàn hạnh phúc mà không một lần khổ
đau; không ai lúc nào cũng vui mà không có nỗi buồn phiền; không ai luôn toại
lòng mãn nguyện mà chưa một lần thất vọng; không ai khỏe mạnh mà chẳng ốm đau;
không ai trẻ mãi, sống hoài mà không già không chết v.v...
Nếu tạo nghiệp
thiện, nhân duyên lành thì đời sống hạnh phúc nhiều hơn đau khổ. Đức Phật không
thể làm trái luật duyên sinh nhân quả, và cũng không ai có thể làm trái luật
duyên sinh nhân quả. Cho nên cầu Phật, cầu trời, cầu thần linh gia hộ mà không
thuận theo nhân quả làm lành, tạo nghiệp thiện, gieo nhân tốt thì chẳng gặt hái
được kết quả gì.
Trong các kinh về Tịnh độ, Đức
Phật Thích Ca và Đức Phật A Di Đà dạy chúng sinh tu tập pháp môn Niệm Phật,
quán tưởng và phát nguyện vãng sinh, tạo các nhân duyên lành để hội đủ điều
kiện vào thế giới Cực lạc. Nhân tố quyết định để vãng sinh là phải “nhất tâm
bất loạn”, “tâm không điên đảo” (Kinh A Di Đà). Các Ngài không
bảo chỉ cần tin các Ngài thôi, tin có thế giới Cực lạc thôi, gọi tên Phật A Di
Đà và cầu Ngài đến đón thì Phật A Di Đà và Thánh chúng tiếp rước đưa về Cực
lạc. Nếu tâm còn bị vô minh ngăn lối cản đường, bị phiền não kiết sử trói buộc
thì làm sao giải thoát khỏi thế gian này. Khi tâm không còn vô minh, phiền não
kiết sử thì cảnh giới Cực lạc hiển bày, Ta-bà và Tịnh độ không khác.
Niệm Phật là làm mới
Dù cho niệm Phật bao nhiêu câu,
một ngày mấy thời, nếu không thay đổi nhận thức, tư duy, không điều chỉnh hành
vi, lối sống của mình (chuyển nghiệp) theo hướng tích cực thì không cải thiện
được gì cả, không làm mới được bản thân, không thay đổi được cuộc đời, không
xây dựng được nền tảng an vui, hạnh phúc cho tương lai.
Nếu như thế thì niệm Phật để làm
gì, chỉ cần thay đổi hành vi, lối sống là được rồi? Niệm Phật là một phương
tiện giúp cho hành giả thanh lọc tâm ý, chuyển hóa nội tâm theo hướng tích cực để
làm thay đổi hành vi, lối sống. Nhưng điều cần thiết là phải biết cách sử dụng
phương tiện này, sử dụng có phương pháp để đạt được giá trị, lợi ích thiết
thực.
Khi niệm Phật, hành giả nhiếp tâm
vào câu Phật hiệu, từ đó tâm không khởi vọng tưởng (không nhớ chuyện đã qua,
không mơ chuyện chưa tới; không suy nghĩ vẩn vơ, không để tư tưởng đi hoang vô
định), tâm không tiếp xúc, không duyên với trần cảnh, không bị hoàn cảnh bên
ngoài tác động, chi phối, phiền não bên trong không có điều kiện sinh khởi. Nếu
chánh niệm được duy trì (tâm an trú vào câu Phật hiệu) thuần thục, chuyên nhất,
lâu ngày thành tựu định lực và tuệ giác. Có định lực vững chắc và tuệ giác luôn
soi sáng thì ngoại duyên không thể tác động, không thể chi phối hay gây ảnh
hưởng; tâm không vọng động thì an nhiên tự tại, không có phiền não khổ đau. Có
tuệ giác soi sáng thì không rơi vào mê lầm, điên đảo vì vọng chấp, thấy rõ được
chân tướng của sự vật hiện tượng, bản chất của muôn pháp, từ đó mà hành vi, lối
sống cũng thay đổi, cuộc đời cũng thay đổi. Đó là nương nơi câu Phật hiệu mà
làm thanh tịnh tâm ý (tự tịnh kỳ ý), dẫn đến thay đổi hành vi, lối sống (vì tâm
ý là chủ tạo tác, hễ tâm ý thay đổi thì hành vi, lối sống thay đổi), tức dùng
phương pháp niệm Phật để chuyển ba nghiệp thân, khẩu, ý.
Nếu người niệm Phật thường nhớ
nghĩ đến thân tướng, công hạnh, đại nguyện, cảnh giới trang nghiêm, thù thắng
của chư Phật (thường là quán tưởng về Đức Phật A Di Đà và thế giới Cực lạc),
thì dần dần chuyển hóa những chủng tử nghiệp bất thiện trong tâm thức thành
chủng tử thiện, huân tập những chủng tử công đức, phước báo giống như chư Phật,
chư Bồ-tát vào tâm thức của mình, làm phát triển lớn mạnh những chủng tử thiện
vốn có trong tâm thức (cũng có thể hình tượng hóa là đánh thức ông Phật trong
tâm mình, hay làm cho hạt giống Phật sinh trưởng và phát triển, hiện hành);
càng tu tập càng chuyển hóa, từ tâm chúng sinh phàm phu thành tâm Phật.
Một khi tâm hành giả đã chuyển hóa
thì chắc chắn cảnh giới sẽ chuyển hóa theo. Tùy mức độ chuyển hóa của tâm mà
con người và hoàn cảnh sống của người niệm Phật có những thay đổi, và nhất là
khi từ bỏ thân xác này (khi mãn phần, đời sống này chấm dứt) thì hành giả sẽ
sinh vào cảnh giới tương ưng với thiện nghiệp của mình. Người tu Tịnh độ cầu
vãng sinh về Cực lạc sẽ theo tâm niệm, nguyện lực của mình và công năng tu tập,
nương Phật lực của Đức Phật A Di Đà mà thể nhập cảnh giới Cực lạc.
Như thế thì niệm Phật chẳng những
làm thay đổi con người và hoàn cảnh hiện tại của mình, mà sau khi thân hoại
mạng chung, xả bỏ báo thân này còn có thể thay đổi cảnh giới, chuyển phàm thành
Thánh, từ chúng sinh thành thượng thiện nhơn, Bồ-tát, Phật. Niệm Phật thành
Phật chính là giá trị cao nhất của pháp môn Niệm Phật.
Tâm tịnh thì quốc độ tịnh
Trong kinh Hoa nghiêm, Đức
Phật cho biết: “Tất cả chỉ tâm tạo” (Nhứt thiết duy tâm tạo), “Tâm như thợ vẽ
khéo, vẽ nên các thế giới” (Tâm như công họa sư, năng họa chư thế giới). Thế
giới Cực lạc do tâm từ bi và trí tuệ, công đức phước báo và nguyện lực của Đức
Phật A Di Đà mà có. Hễ tâm ai tương ưng với cảnh giới Cực lạc thì sinh về Cực
lạc.
Muốn đến thế giới Cực lạc phải có
cái tâm như tâm của Phật A Di Đà, hoặc như tâm các vị Bồ-tát, các bậc thượng
thiện nhơn, có chí nguyện như các vị ấy, đó là điều kiện để xây dựng thế giới
Cực lạc. Nếu tâm chúng ta chỉ là những nhân tố, những thành phần xây dựng nên
cõi trời, cõi người thì nó chỉ có thể kiến tạo nên cõi trời, cõi người. Nếu tâm
chúng ta là những nhân tố, những thành phần có phẩm chất xấu hơn, không thể xây
dựng nên cõi trời, cõi người, thì những chất liệu đó sẽ cấu thành những cảnh
giới khác như a-tu-la, ngạ quỷ, súc sinh chẳng hạn.
Có người chỉ muốn niệm Phật để
tâm bình an, niệm Phật để chuyển hóa phiền não khổ đau, họ không hướng về Cực
lạc vì còn luyến ái cõi Ta-bà này. Người không có chí nguyện vãng sinh như thế
thì khó có thể vãng sinh, bởi vì không có chí nguyện, ý hướng về Cực lạc, nói
cách khác là không có những thứ cần thiết để gây dựng, thiết lập thế giới Cực
lạc thì không có được thế giới này. Tuy nhiên nếu có tu tập, hành trì pháp môn
Niệm Phật, có niềm tin về thế giới Cực lạc, về Đức Phật A Di Đà, tích cực hành
thiện tu phước thì những nhân duyên lành đó không mất, cũng không phải không có
ích trong hiện tại, và đến một lúc nào đó trong đời này hoặc những đời sau
những hạt giống lành đó sẽ phát triển lớn mạnh, khi hội đủ điều kiện nhân duyên
chúng sẽ đơm hoa kết trái, người đó cũng sẽ phát nguyện vãng sinh hoặc chứng
nhập cảnh giới Cực lạc ngay trên cõi đời này.
Trong hiện tại, pháp môn Niệm Phật
giúp người hành trì thanh tịnh ba nghiệp thân, khẩu, ý; không tiếp tục tạo các
nghiệp xấu, ác, bất thiện, từ đó hiện tại và tương lai không phải gánh chịu
những nghiệp quả khổ đau, các nghiệp nhân bất thiện đã gieo trong quá khứ cũng
không có điều kiện sinh khởi, hiện hành, chuyển hóa được phần nào nghiệp bất
thiện khi chưa trổ quả, nhờ vậy cải thiện được đời sống hiện tại của mình và
xây dựng được nền tảng tốt cho tương lai.
Nhờ hành trì pháp môn Niệm Phật mà
tâm định tĩnh, trí sáng suốt, ngoài không bị ngoại duyên tác động, trong không
bị phiền não vọng tưởng chi phối, nhờ đó không còn lo lắng, sợ hãi, khổ đau, có
thể giải quyết được những khó khăn, vướng mắc gặp phải trong đời sống. Đó là
kết quả của đời sống chơn chánh có tu tập, thực hành nếp sống đạo đức, tuyệt
nhiên không phải là sự phò trợ, giúp đỡ bằng quyền năng hay phép màu của Đức
Phật.