tức là nền
tảng nhị nguyên trong quan điểm loài người về xã hội – nghiệp chính là vai trò
xã hội hóa từ các hành vi của chính chúng ta trên mặt thế tục và, tất nhiên cả
trên mặt thắng nghĩa đế. Cho nên, trong cách thể hiện của nghiệp, theo quan điểm
Phật giáo, thì nghiệp cũng là con đường đưa đến giải thoát từ trong hệ thống quy
chiếu tương đối của thế tục, nếu ta biết chắc lọc những tinh chất trong đó, dụ
như hoa sen thành tựu ở bùn nhơ. Do vậy, mới có kệ tụng “nhị
Đế vốn dung thông”.
Trong bất cứ hệ thống tu tập hay triết học nào, nếu
ở đó không bao hàm sự dung thông tham chiếu giữa tục và chân đế thì các phép tu
hay các luận thuyết ấy sẽ phải gánh chịu sự đào thải tất yếu của lịch sử tiến
hóa – sự đào thải gây thảm họa của cái gọi là ý thức hệ.
Thật may mắn, để thể nghiệm tiến trình chuyển hóa
phi ngôn, thì nền tảng vững nhất để ta y cứ, chính là tính hiệu nghiệm của âm
thanh mật chú và chú Đại Bi là một trường hợp như vậy cho những ai chuyên trì nó.
Thật thế, mật chú như khổ đau, ta phải nếm trải và hương vị của nó không thể
tiếp cận bằng ngôn thuyết. Cũng thế, khi thực hành đại bi tâm, thì cơ sở mà ta
tiếp hợp, chính là niềm im lặng vô biên, như sự lặng thinh bão bùng của biển cả.
Phương tiện sanh ra từ gian khó và khổ đau là diệu hạnh của thiền tư.
Một trong những ngôn ngữ
khó học và lấy âm thanh làm biểu tượng để hiển nghĩa, đó là Phạn ngữ và tiếng
Á-Rập. Pāniṇi đã say mê Phạn văn, cũng y như
toàn bộ dân tộc Trung Đông say mê bản kinh AlKur’aan (ألقﺮآن) của họ - một loại ngôn ngữ được gọi là ngữ
hệ Nhật-Nguyệt (sasmanūn-khomarūn), dùng những biến tấu âm-dương để kích phát
lòng khát khao chinh phục. Cũng vậy, chính vì lấy âm thanh làm nền cho học
thuyết mô tả, cho nên, hệ thống ngôn ngữ học của Pāniṇi được gọi là hệ thống
Bát Chuyển Thanh.
Liệu con đường tiếp hợp từ luật (sandhi) và chuyển hóa của những âm thanh trong
Phạn văn – qua mật chú – có dẫn ta đến giác ngộ hay không? Cả một hệ thống tu
tập của Tây Tạng là một chứng minh hùng hồn cho câu hỏi đó. Vấn đề ở đây mà ta
đề cập, chính là “sóng âm thanh” đưa ta đến giác ngộ hay trí tuệ, chớ không là
luận thuyết hay ý thức hệ vốn chứa lắm nổi ưu phiền. Có nghĩa là, cho dù ta là
chủ thể trì tụng, thế nhưng, tác dụng lại chính nơi bài chú ấy. Do đó, mật chú
vẫn còn nội hàm ý nghĩa của “tính khách quan” chi phối chủ quan, và cũng do vậy
mà ta nói: nhị Đế dung thông. Sự dung thông này, do trên duyên khởi, chớ không
do trên luận chứng. Y như ta nghe một bài nhạc giao hưởng, tuy rằng ta không
hiểu nó, nhưng chính sự hòa điệu âm thanh của nó mà ta trở nên an lạc, tiêu sầu;
huống chi trạng thái ấy lại được khởi sinh từ mật chú, từ sự tin sâu trì tụng.
Trong một bài viết ngắn “PHIÊN DỊCH KINH PHẬT TẠI TRUNG QUỐC”, ông Dương Ngọc
Dũng, có lạm bàn đôi chút về sự phiên dịch từ Phạn văn ra Hán văn, với những lời
lẽ hàm hồ, không nêu ra được tính đặc sắc của các dịch giả Trung Hoa về Phật
điển. Do di truyền của mỗi loại ngôn ngữ, tức là di truyền của dân tộc ấy mà cấu
trúc câu có thể khác biệt trên mặt hình học, nhưng vấn đề là dịch giả có chuyển
tải được trọn vẹn ý nghĩa của “ngữ nguồn” đó hay không. Đã không làm rõ được
quan điểm về ngôn ngữ - nhất là ngôn ngữ dịch – của mình, ông Dương Ngọc Dũng
lại cho rằng mình học cách dịch tiếng Phạn từ một giáo sư đại học Harvard. Để
chứng minh ý kiến của mình về việc phiên dịch Phạn-Hán, ông D.N.Dũng có trích
một kệ ngữ phổ thông trong Phật giáo, đó là kệ Tam Quy: “Tôi xin quy y Phật”,
tiếng Phạn: Buddhaṃ
śaraṇaṃ gacchāmi. Ông Dũng cho rằng, nếu
dịch sát câu đó có nghĩa là: Buddhaṃ = hướng về Phật, śaraṇaṃ = để tìm nơi
trú ẩn, gacchāmi = Tôi đi đến. Toàn bộ kệ ngữ đó sẽ là:
Tôi đi đến Phật để tìm nơi trú ẩn.
Trên mặt học thuật thì kệ ngữ trên được dịch chính xác
Vì không hiểu ngữ pháp của tiếng Phạn, và nhất là “hù” người đọc bằng cước chú
rằng mình học nguyên tắc (ngữ pháp) với giáo sư trưởng khoa Phạn văn của đại học
Harvard, nên ông Dũng đã dịch kệ ngữ trên theo cái cách rất khoa bảng và Mỹ hóa.
Bản chất của sự việc ấy đưa tới một vài hệ lụy như sau:
Thứ nhất, Buddhaṃ, theo lối ngữ pháp thông thường, thì không có nghĩa
là hướng về Phật, Đây là một biến cách
Đối cách hay trực tiếp túc từ (acc.), không có chuyện hướng về Phật gì cả. Bởi
vì hướng về, ta đã phải qua một
giới từ (chẳng hạn, go to trong tiếng Anh và sẽ Buddha sẽ trở thành
tặng cách [dat.] – Buddhāya)[1]. Và càng xa trung tâm ngữ
pháp hơn khi dịch chữ śaraṇaṃ = để tìm nơi trú ẩn. Ta phải hiểu rằng,
śaraṇaṃ, là một phẩm từ, nói lên phẩm
chất của Phật, phái sinh từ căn tố √śṛ = vi phân,
hay tách nhỏ ra, – mọi chúng sinh đều có thể
dựa nương – nơi an toàn tuyệt đối. Do vậy, câu trên sẽ hiển nghĩa như sau: Phật
là chổ dựa an toàn (nên) tôi tiếp cận Ngài…Ở đây,
śaraṇaṃ, không chỉ cho mục đích –
để tìm nơi trú ẩn, mà nó xác định một “trú xứ an toàn”. Bởi vì,
śaraṇaṃ có cùng một biến cách với Buddhaṃ - biến cách đối cách - đối với một Phật tử, với niềm
tin của mình, thì Phật đúng là một chổ dựa an toàn. Chính “tôi” tiếp cận Phật.
Hơn nữa, căn tố √gam, khi kéo theo đối cách (acc.), hay sở hữu cách (gen.),
thì ta phải dịch là tiếp cận. Còn khi nào
√gam đi với một giới từ, như trường hợp go to (của tiếng Anh,) thì ta mới dịch “
tôi hướng đến” trong phạm vi của gam khi liên hệ đến một tân ngữ (obj.) thuộc về
tặng hay dữ cách (dat.). Và lúc bây giờ,
√gam sẽ là gamyatāt[2].
Trên thực tế, śaraṇaṃ được dịch là
để tìm nơi trú ẩn, vì theo Sir M. Moniere Williams, chỉ khi nào śaraṇaṃ đi với √gam với vai trò đối cách hay sở hữu cách trong sự kết thúc của một
hợp thành từ, thì nó sẽ có nghĩa là “quy y – see refuge with…” và, như thế,
trong trường hợp đặc biệt này, thì √gam śaraṇaṃ
(VP) = tìm nơi trú ẩn (nghĩa là śaraṇa phải liên kết cả
gam [VP] mới có nghĩa ấy. Nó không thể
đứng độc lập), và vì śaraṇa phải liên kết với
gam hàm ngôn cho sự sở hữu, cho nên
câu trên có thể viết: Buddhasya śaraṇasya
gacchāmi (vì Phật là trú xứ an toàn, nên tôi tiếp cận ngài).
Do vậy, dịch ngữ của ông Dũng trúng trong trường hợp “dịch giả” qua một bản
tiếng Anh nào đó, nhưng không lột tả được ý nghĩa thâm thúy của kệ ngữ trên và
nhất là thiếu mất tính ngữ pháp. Câu trên có thể Việt dịch:
Buddhaṃ śaraṇaṃ gacchāmi = Tôi tiếp
cận Phật, vì Ngài thể hiện là một trú xứ an toàn.
Thế nhưng, tại sao śaraṇaṃ là từ phẩm định cho Buddhaṃ mà nó lại có thể chi phối cho “cái tôi tìm đến”. Đơn
giản, vì nó chấm dứt một quá trình đi tới và, “động thái” này nhằm hoàn thành
một compound theo quy ước của Phạn văn. Thật là may mắn, khi ta được các dịch sư
tiền bối của ta dịch là “ngã quy y Phật”; trên phương diện phát ngôn, ở đây chẳng phải
xin quy y
gì cả, như ông Dũng dịch – Tôi xin quy y. Người xưa với lối lối trực dịch của mình là lối trực
dịch bằng cảm nghiệm tâm linh, chẳng cần thông qua bất cứ con đường khoa bảng
nào. Và nhờ sự cảm nghiệm ấy mà ta chỉ cần xướng tụng kệ ngữ ấy lên, thì thân
tâm đã “thoáng nghe” an lạc. Thêm nữa, chổ thiên tài của cổ nhân là dịch śaraṇa gam là QUY Y. Tại sao không là
khứ y hay lai y. Có phải QUY Y có nghĩa là hồi đầu thị ngạn (quay đầu là bờ)? Hay có nghĩa là
trở lại với Phật tính của mình trong nội dung triết học
ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm (nên
trú trong duyên sinh mà quan sát chư pháp) của kinh Kim Cang? Đến giờ hai
chữ “QUY Y” chưa ai thay thế được – nó tồn tại và thách thức vĩnh cữu (với thời
gian) và thách thức với mọi loại dịch giả khoa bảng nào.
Theo cách này, chỉ một kệ ngữ ấy thôi, đã nói lên rất nhiều vấn đề triết học
Phật giáo y trên văn phạm của ngữ hệ ấy. Đối với một Phật tử, thì người ta không
cần “biết” nhiều, mà chỉ cần “biết” đúng như thật về một pháp nào đó được Phật
dạy, là đủ rồi, còn những nghiên cứu hay học với ai, thì được cho là yếu tố phụ,
không cần phải đánh bóng tên tuổi của ta bằng người thầy của mình, kể cả trường
hợp đó là bậc thầy của trời người.
Chẳng hạn, khi một người vừa thực hiện vừa nghiên cứu pháp môn Niệm Phật, thì
cho dù có những “hoang tưởng” của một ai đó về niệm Phật là nên niệm “A-Mi
Đà Phật”,
thì họ cũng đãnh lễ và xin không thừa nhận về việc niệm hồng danh “nửa ta nửa Ấn” ấy. Ngay cả hiện tượng ngày hôm nay, có một số chủ
trương cho rằng, vào thời mạt pháp niệm “lục tự A-Di-Đà Phật” là quá dài, chỉ
nên niệm A-Di-Đà Phật thôi để được vãng sinh, thì họ cũng xin đãnh lễ và cáo
thối, vì, nếu niệm “tứ tự A-Di-Đà Phật”, thì ta sẽ đánh mất đi cái học về âm vị,
vốn là truyền thống tạo nên sức mạnh niệm Phật của ta. Cụ thể được chứng minh
trong bài chú Đại Bi này – đãnh lễ Tam bảo – NAM MÔ (Quy Y) TAM BẢO -
đã thành là chú ngữ và hơn thế, đãnh lễ một đấng giác ngộ nào đó – ĐÃNH LỄ (Quy
Y) QUAN THẾ ÂM BỒ TÁT - cũng là
“tụng chú” rồi vậy - nghĩa là nếu
không niệm đủ lục tự, thì ta đã loại đi hành nghi “QUY Y PHẬT” và cuối cùng là
đoạn ngôn Phật và Tăng bảo – không còn biết đến chùa tháp, điện thờ, lễ Phật,
sám hối có chứng minh của Phật và Tăng là gì; và, đây là thực trạng đáng buồn
đang diễn ra trong pháp môn niệm Phật của riêng khu vực miền Nam ta. Thậm chí
pháp môn “cách tân” về việc niệm Phật như thế đã quyến rũ rất nhiều người - “QUY
Y PHẬT A-DI-ĐÀ” và không cần biết bổn sư của ta là ai – người mà dạy ta về hành
tướng của tất cả cảnh giới trang nghiêm – đức bổn sư Thích Ca Mâu Ni Phật. Nói
trên mặt thế pháp cho dễ hiểu, khi ta tôn kính một vị chân tu nào đó, hòa thượng
Thích Đỗng Minh, chẳng hạn, có bao giờ ta gọi một cộc lốc là Thích Đỗng Minh
không? Mạt pháp hay chánh pháp cũng đều là “pháp”, ta chỉ sợ những “quái thai”
sinh ra từ chủ nghĩa hư vô, cái gọi là pháp đoạn ngôn ấy, mà thôi. Trên mặt
triết học ngôn ngữ học, “NAM MÔ A-DI-ĐÀ PHẬT”, là cái học về ngôn ngữ hành vi
(behaviorism), “ngôn ngữ một nghệ thuật xã hội. Để đạt đến nó, ta phải hoàn toàn
phụ thuộc vào những mật hiệu có giá trị hỗ tương với việc nói cái gì và khi nào
nói,”[3] tức
là hành vi nói và thời điểm phát ngôn – trạng thái của tâm thức phát sinh vào
lúc nào. Vậy thì, đoạn ngôn “NAM MÔ”, là đưa A-DI-ĐÀ PHẬT vào tư duy trần tục
trong thời điểm mà ta bị hoang tưởng hóa hoàn toàn.
Trong giai đoạn mà việc cách tân niệm Phật đang nở rộ, và giá đở của nó là “lý
thuyết tận thế”, được rất nhiều vị sư “chân tu” tiếp sức “hoằng dương”. Dù dưới
bất cứ động cơ nào, thì thuyết tận thế là một quan điểm xa rời thực tế và bên
dười là động cơ lôi kéo đồ chúng. Hơn hết, đó là học thuyết của Thiên Chúa giáo.
Một số tu sĩ của Phật giáo, vì kém hiểu biết (hiểu biết về Thiên Chúa giáo và
khoa học) đã lạm dụng nó để rêu rao “chủ nghĩa niệm Phật” một cách cực đoan và
tà kiến. Không may, cái tà kiến ấy, đã được một số đông Phật tử thuần thành tin
nhận và thậm chí đã in thành tờ rơi với những răn đe tận thế.
Hãy nhớ rằng, Phật giáo nói đến “thành, trụ, hoại, không,” là nói đến chu kỳ vô
thường của vạn loài và vũ trụ và không bao giờ nói đến tận thế và ngày phán xét
cuối cùng, để rồi ta được lên Thiên đàng hay sa vào địa ngục. Thiên đàng hay địa
ngục tùy thuộc vào nghiệp lực do chính chúng ta tác tạo. Tận thế hay không cũng
là do nghiệp của chúng ta. Thay vì tuyên thuyết về nghiệp và những tinh hoa của
nó, đằng này các “thầy” của ta lại mượn thuyết tận thế của Thiên Chúa để dẫn vào
“pháp niệm Phật” cực đoan, đánh mất trạng thái phát bồ đề tâm, chỉ thuần hành
thiện trên vai trò tục hóa, loại trừ tính tinh hoa sâu thẳm của pháp môn niệm
Phật được chư tổ sư dầy công xây dựng.
Hãy tưởng tượng, nếu ta chỉ xướng lên “Quan Thế Âm bồ tát” hay “A-Di-Đà Phật”
một cách đơn độc như thế, thì ta có cảm giác là mình đang “vô lễ” với các vị ấy.
Bởi vì đó là sự “trân tráo”, khi gọi đích danh một bậc mà bậc ấy đưa ta đến giác
ngộ; nghĩa là ta không cần biết đến “quy y” là gì, không cần biết đến lòng tôn
kính của ta đối với vị ấy như thế nào. Và, cuối cùng cái gì xảy ra? Ma chướng
trên con đường niệm Phật.
Tất nhiên, anh có quyền học và học mãi, nhưng nên nhớ rằng, sự học chỉ có đôi
phần ảnh hưởng đến việc cảm nghiệm tâm linh theo quan điểm tôn giáo mà thôi. Vai
trò toàn diện chính là “QUY Y Phật.” Và “quy y Phật”, chính là quy y nhất thiết
Phật, nhưng trước tiên, phải là “”QUY Y” đức bổn sư của mình là Thích Ca Mâu Ni
Phật vậy.
QUY Y, là mủi tên định hướng, là la bàn chỉ ta
đi đến bờ giác một cách chính xác. Thế nên, người Á Rập gọi đạo tràng tụng niệm
của mình là mihrab, thuật ngữ này vừa có nghĩa là la bàn vừa có nghĩa là đạo
tràng tụng niệm.
Thiển nghĩ, nếu học Phạn văn – cách dịch Mỹ hóa như thế của ông D.N.Dũng, thì
cũng nên lặn lội tới Mỹ để học. Thế nhưng, nói một cách thơ ngây, cá nhân tôi
vẫn có thể dạy được[4] một
nguyên tắc sơ học như thế, cần chi đi xa. Thêm nữa, giáo sư trưởng khoa Phạn văn
của Harvard đã không dạy ông Dũng “bàn phím gõ tiếng Phạn”, cho nên, các biểu
tượng chỉ cho cách phát âm của những từ trong kệ ngữ ấy – Buddham saranam
gacchàmi - đã bị xuyên tạc.
Một vài ý kiến nhỏ vừa nêu, không phải mở ra một cuộc tranh luận (tuy nhiên, nếu
cần thiết) về một thể tài quá lớn [kể cả pháp môn niệm Phật “cách tân” như ta
được biết] – công trình phiên dịch Phạn-Hán của tiền nhân Trung Hoa – những
người như Nghiêm Phục, Lương Khải Siêu hay Lỗ Tấn (như ông Dũng trích dẫn)…gì gì
đó - Phật điển có nguồn gốc Phạn bản của tiền nhân - ta không biết chắc là họ có
giỏi Phạn văn, liệu có như trường hợp của ông D.N.Dũng hay không (vì tôi không
phải là một nhà nghiên cứu như ông Dũng, không được đi Mỹ học tiếng Phạn và cũng
chưa cần thiết để biết Nghiêm Phục, Lương Khải Siêu hay Lỗ Tấn là ai) mà một ít
ý kiến như thế để nhằm dẫn vào vấn đề nhỏ của tôi về chú Đại Bi bản Hán - đã
được ký tự trên cơ sở ngôn âm của tự thân nó - thành Phạn văn, như tiêu đề của
bài viết này.
Theo chổ tôi biết, thì bài chú Đại Bi đã được hai người dịch ra tiếng Việt: Tỳ
kheo Minh Đức Triều Tâm Ảnh với hình thái thi ca và cư sỹ Huyền Thanh trong
Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Âm Đà-La-ni Kinh. Tỳ kheo Minh Đức đã giới thiệu bài
chú ấy trong trang mạng (chú Đại Bi Phạn ngữ) và, Hán dịch thì được tìm thấy
trong Phật Giáo Đích Chân Ngôn Chú Ngữ. Còn xét từ Đại Tạng, thì ta có tới hai
bản “ký âm”: 1/ Kim cang trí. 2/ Bất không.
Ở đây bản của Bất không là bản mà ta đọc tụng hằng ngày. Tuy nhiên, nếu đối chiếu
hai bản, thì ta thấy có những sai biệt. Chẳng hạn, nếu đánh số câu, thì bản của
Kim cang trí
có cả thảy 112 câu, còn bản của Bất không chỉ có 79 câu – sai biệt đến 38 câu,
[nếu tham khảo bản Hán của từ trong PHẬT GIÁO TIỂU BÁCH KHOA, thì bản chú Đại Bi
trong đó có 105 câu] ta có:
Kim cang trí (N. 1061 [trong các N.1056, 1060,
1062-1064]). ĐT20, p.112.
Thiên thủ thiên nhãn Quán tự tại bồ tát quãng đại viên mãn vô ngại Đại bi tâm đà
la ni.
Nẵng mồ rà đát ra dạ da (nammo rānatrayāya – đãnh lễ Tam bảo). 2. Nẵng mồ a rị
da (namaḥ ārya – đãnh lễ bậc thánh). 3. Phạ
lô chi đế thấp phạt ra da (avalokiteśvarāya
– Quán tự tại, người làm chủ cái thấy của mình). 4. Mạo địa tát đa phạ
(boddhisattvāya – bồ đề tát đõa, chúng sinh có trí tuệ) 5. Mang hạ tát đa phạ da
(mahāsattvāya – đại chúng sinh, vị hữu tình vĩ đại) 6. Mang hạ ca rỗ nị ca ya
(mahākaruṇikarāya – lòng từ mẫn vĩ đại, đại bi) 7. Tát ma mãn
đà (sarvabandhāna – mọi trói buộc) 8. Nẵng thứ na nẵng ca ra da (chedanakarāya –
được chặt dứt, bị trừ diệt) 9. Tát ma bà phạ (sarvabhava – mọi hữu thể, tất cả
khởi nguyên) 10. Sa mẫu nại lao tạc sái noa ca ra da (samudraṃsukṣaṇakarāya – Làm cho biển khổ khô cạn) 11. Ta ma di dạ
địa (sarvavyadhi – mọi phiền não bức bách) 12. Bạt ra xã mang nẵng ca ra da
(prasamanakarāya – sở tác thanh tịnh, được tịnh hóa toàn diện) 13. Tát ma đễ đa
dữu bạt nại ra phạ (sarvetityubhandrava – tất cả tai ương) 14. Vĩ na xã nẵng ca
ra da (vināśanakaraya - ) 15. Tát ma bà duệ số (sarvabhayeṣyo – tất cả sự sợ hải) 16. Đát ra noa ca ra da
(tārānakārāya – thực hiện sự cứu độ) 17. Đã tư mẫu nẵng tư kiết rị đa phạ
y na ma ha rị dạ (tasmai namakṛtvā
inamarāya – tôi đãnh lễ bậc thánh như thế của tôi) 18. Phạ rô chi đế thấp phạ ra
bà sử đơn nhi la kiến xá bế (avalokiteśvaralaṃtābha
– sở y quán tự tại) 19. Nẵng ma hiệt rị na da (nāma hṛdāya
- gọi là tính cốt lõi) 20. Ma vật thích đã dĩ sử dạ dị (avrataicchayāmi – hôm
nay tôi tuyên bố) 21. Tát mạt tha ta đà kiến (sarvāthasadhanaṃ suddhanaṃ - mọi lợi lạc thành tựu) 22. Tuất (mậu) bạn a nhi diên
(ajiyaṃ - siêu việt ; mọi hữu thể
không thể so bì) 23. Tát mạ bộ đa nam
(sarvabhutanaṃ - mọi hữu thể) 24.
Bà phạ mạt ngoa vĩ tuất đà kiếm (bhavamargaviśuddhakaṃ - có lộ trình dẫn đến thanh tịnh) 25. Đát nhĩ dã tha
(tadhytha – như thế) 26. Án a lộ kế a lộ ka mang đế (oṃ
āloke ālokāmati) 26. Án a lo kế a lộ ka mang để (oṃ
āloke ālomati) 27. Lộ ca để ngật lan để hệ hạ lệ a rị da (lokātikramtehehare
ārya) 28. Phạ lô chi đế thấp phạ la (āvalokieśvara) 29. Mang hạ mạo địa đát đa
phạ (he mahābodhisattva – mừng thay đấng đại bồ đề) 30. Hệ mạo địa tát đa phạ
(he bodhisattva) 31. Hệ ma hạ mọa địa tát đa phạ (he mahābodhisattva – vui thay!
Đại bồ tát) 32. Hệ ti rị dã mạo địa tát đa phạ (he viryabodhisattva – tinh tấn
bồ tát) 33. Hệ mang hạ ca lô nị ca (he mahākāruṇika – vui thay! Đấng đại bi) 34. Đỗ mang ra hiệt rị na
diên (smīrahṛdayam – trì
niệm tính cốt lõi; trì niệm tâm đại bi) 35. Tứ tứ hạ lệ a rị da (hihi hare ārya
– mừng thay! bậc thánh) 36. Phạ lô chi đế thấp phạt ra (āvalokieśvara) 37. Mang
hệ thấp phạ ra (maheśvara – đại tự tại) 38. Bạt ra mang đa chất đa
(pramatracitta – thắng tâm, tâm hoàn chỉnh) 39. Mang hạ ca lô nánh ca (mahākāruṇika – đại bi) 40. Cu lỗ cu lỗ yết mãn ta đại da ta đại da
(kuru kuru karmaṃ sadhaya
sadhaya – trong sự nghiệp lại làm nên nghiệp lớn) 41. Vĩ nhi diên (vidhyām) 42. Nảnh
hê ni hệ đa phạ lan (nihe nihe tavaraṃ -
dẫn vào thệ nguyện) 43. Ca mãn ngoa
mang (kamaṃgama
– siêu ma chướng, diệt ái nghiệp). 44. Vĩ can ngoa mang tất đà dụ nghĩ thấp
phược ra (vigamasiddhayugeśvara) 45. Đổ rô đổ rô vĩ diễn đề (dhuru dhuru viyanti
– trong đôi ách [tư duy] thành bậc hành không) 46. Ma hạ vĩ diễn đề (mahāviyaṃdhi) 47. Đà
ra đà ra đạt lệ ấn niết lệ thấp phược la (dhara dhara dhare indreśvara – đôi
ách, đôi ách, từ đôi ách thành bậc tự tại) 48. Tả lã tả lã vi mang lã mang la
(cala cala vimala amala – sự ly cấu, sự vô cấu phát sinh) 49. À ri ya (ārya) 50.
Phạ rô chi đế thấp phược la (āvalokiteśvara) 51. Nhi (?) ngật rị sử noa (jinakṛṣṇi – diệu
tướng của bậc thắng tử) 52. Nhạ tra mang cù tra (jatāmakuṭa – nhục kế như mão pha lê) 53. Phạ lãm ma bạt la lãm ma
vĩ lãm ma (varaṃma praṃmaviraṃma – buông thành tràng hoa) 54. Mang hạ ti đà vĩ nhi dạ đà
ra (mahāsiddhavidyādhara – trì giữ đại minh chú) 55. Bà ra bà ra mang hạ mà ra
(vara vara mahāvara – thệ nguyện, thệ nguyện, đại thệ nguyện) 56. Ma lã ma lã
mang hạ mang lã (vala vala mahāvala – chinh phục chinh phục, đại chinh phục ác
ma) 57. Tả ra tả ra mang hạ tả ra (cara cara mahācara – hành giả, hành giả , đại
hành giả) 58. Ngật rị sử noa vật lật noa nhi lật già (kṛṣṇivṛṇadīrgha) 59.
Ngật rị sử noa phả khất sái ni cà đá nẳng (kṛṣṇṇipakṣadīrghatana –
bậc trưởng thượng với tinh hoa huyền nhiệm) 60. Hệ pha na mang hạ ti da (he
pasmahasti – vui thay! Bậc liên hoa thủ; bậc có bàn tay bằng bông sen) 61. Tả la
tả la nãnh xá tả ra thấp phược ra (cārya
cāryeśvara – sự tự tại của bậc thánh) 62.
Ngật rị sử noa tát ra bạt ngật rị đà dã nhi dụ bạt vĩ đa (kṛṣṇisarpakṛtayajyopavita
– sự liên hệ nhuần nhuyển như dược tính chắc lọc từ loài hổ mang) 63. Ế hệ mang
hạ phạ ra hạ mẫu khư (ehyehemahāvarahamukha – vui thay! Tướng của đại binh đoàn
[trư diện tướng; tướng của loài heo rừng độc chiếc = heo rừng có một nanh]) 64.
Đát rị bổ ra na hạ ninh thấp phược ra (tripuradahaneśvara – tự tại siêu tam độc)
65. Nẵng ra dã noa phạ lộ pha (narayaṇavarūpa – sắc thân chắc khỏe như thần Na-la-diên;
na-la-diên thân) 66. Phạ la mạt ngoa a rị hệ hề
nãnh la kiến xá hê (varamarga he nīlakaṇṭha – Vui
thay! Đấng thanh cảnh, con đường chuyển tải thệ nguyện) 67. Ma hạ ca la
(mahācala – đại tác dụng, hiệu ứng vĩ đại) 68. Hạ la hạ la (hara hara – chinh
phục) 69. Vĩ sa ni nhi đá lộ ca tả (viṣanijitalokasya
– sự phát sinh của độc tố của thế gian) 70. Ra ngoa vĩ sa vĩ nẵng xa nẵng
(rāgavisavināśana – đó là độc chất tham ái ) 71. Na vị sa vĩ sa vĩ nẵng xa nẵng
(dviṣaviṣavināśana –
trừ diệt tham sân si) 72. Mộ hạ vĩ sa vĩ nẵng xã nẵng (muhaviṣavināśana
– diệt độc ngu si) 73. Hộ rô hộ rô mãng la hộ rô hạ ra (hulu hulu mara hulu hale
– tốc thắng, đại tốc thắng trong tám bộ quỷ thần) 74. Mãng hạ phả na mãng nẵng
bà (mahāpadmanābha – tên của thần Viṣṇu;
người tạo tương lai trong bông sen ) 75. Tát ra tát ra (sara sara – kiên cố, vô
hoại diệt) 76. Ti rị ti rị (siri siri – cát tường, cát tường) 77. Tô rô tô rô
(suru suru – tuôn chảy cam lộ) 78. Mẫu rô mẫu rô (muru muru) 79. Mẫu địa dã mẫu
địa dã (buddhya buddhya – đắc tuệ giác, sở giác) 80. Mẫu đĩa dã mạo đại dã
(buddhya buddhya) 81. Nhị đế (maite) 82. Nhĩ ra kiến xá ra hê hề ma mãng tư thể
đa ti ưng hạ mẫu khư (nīlakaṇṭha
ehy ehe vama sthitasimha mukha – đấng thanh cảnh, mừng thay tướng sư tử trụ) 83.
Hạ sa hạ sa (hasa hasa – nụ cười) 84. Muộn tả muộn tả (muṃca muṃca –
buông xả, buông xả) 85. Mãng hạ tra tra hạ san (mahāṭātahasaṃ - đại tiếu, nụ cười nổi tiếng, tiếu âm phổ động) 86. Y hê
hề bảo mang hạ tất đà dũ nghệ thấp phược la (ehy ehe pammahāsiddhayavidhyaṃ - vui thay, đấng thành tựu vô nhiễm) 87. Sa noa sa noa
phạ tế (saṇa saṇa vace – trong ngôn âm này) 88. Ta đại da ta đại da vĩ nhĩ
diên (sādhaya sādhayaviddhyaṃ - thành tựu
minh tuệ) 89. Ti mang ra ti mang la (smira smira – nhớ lấy, ký niệm) 90. Rô bà
ngoa mãn đơn lộ chi đa vĩ rô chi đơn (saṃbhavaṃtaṃ
lokitavilokitaṃ -
triệt quán viên đức) 91. Lộ kế thấp phược ra đát tha nga đơn (lokeśvaram
tathāgataṃ -
Thế tự tại vương như lai) 92. Na na hê danh na rị xã nẵng
(dadāhi me darśana – khai thị cho tôi, ban cho tôi thị lực) 93. Ca mang tả na rị
xã nan (kāmasya darśanaṃ -
thị lực hoan hỷ, cái nhìn ngưỡng mộ) 94. Bạt ra ngật lã na da mang nẵng sa phạ
(Prakradāyamana svāhā – thành tựu tâm hoan hỷ) 95. Tất đà dã sa hạ (siddhāya
svāhā – thành tựu viên mãn) 96. Mang hạ tất đà dã sa hạ (mahāsiddhāya svāhā –
viên mãn đại thành tựu) 97. Mang hạ tất đà dã sa hạ (mahāsiddhāya svāhā – viên
mãn đại thành tựu) 98. Tất đà dũ nghệ thấp phược lã da sa hạ (siddhayogeśvarāya
svāhā – viên mãn việc thành tựu pháp du già tự tại [pháp tu thiền tuệ]) 99. Nhĩ
la kiến xá da sa hạ hạ na lã ti ưng hạ mẫu khư da sa hạ (nīlakaṇṭha
svāhā – viên mãn thay! Tướng thanh cảnh [vị bồ tát có cái cổ xanh từ bi – pháp
âm từ bi]; bi nguyện giải khổ ban vui) 100. Phạ ra hạ mẫu khư da sa hạ
(mahāvarāha svāhā – viên mãn thay! Sự hóa thân thành hình thế đoàn quân dũng
mãnh; ) 101. Mang hạ na lã tỉ ưng hạ mẫu khư da sa hạ (mahādarasiṃha mukhāya
svāhā – viên mãn thay! Tướng đại mãnh sư; thành tựu tướng sư tử dũng mãnh) 102.
Tất đà vĩ nhĩ dạ đạt lã da sa hạ (siddhaviddhya dharāya svāhā – dứt khoát cho sự
chứng đắc minh chú) 103. Phả na mang hạ tát đá da sa hạ (Padmahastāya svāhā –
thành tựu liên hoa thủ; thành tựu bàn tay hoa sen) 104. Ngật rị sử noa tát bà
ngật rị dạ dã nhi dụ phả vĩ đá da sa hạ (ha kṣṇsarpakṛtvajyopavitāya
svāhā – vui thay thành tựu sự liên hệ khéo léo [như dược tính chiết xuất
từ] loài rắn đen; vui thay thành tựu mối liên hệ khéo [như dược học chế xuất từ
nộc độc của] loài rắn đen) 105. Mang hạ lã củ tra đà lã da sa hạ (mahāmuktā
dhārāya svāhā – viên mãn thay! Sự trì thủ ngọc như ý [sự thấu đạt tinh hoa Phật
pháp]) 106. Nghiên yết ra dữu đà da sa hạ (Cakrayudhāya svāhā – viên mãn thay!
Quyền trượng thúc đẩy xa luân) 107. Thắng khư nhiếp na nhi mạo đà nẵng da sa hạ
(saṅkhaśabdanibuddhanāya svāhā – viên mãn thay ! Sự thổi loa
pháp [cổ vũ] khai đại giác) 108. Ma mang tư kiến đà vị sa tư thế đa ngật rị sử
noa nhi nẵng da sa hạ (vamaskandhaviṣasthitakṣṇajināya svāhā
– thành tựu bậc chiến thắng bóng tối do uẩn xứ gây nên) 109. Nhi dạ khư ra triết
mang nhi phạ sa nẵng da sa hạ lộ kế thấp phược ra da sa hạ
(vyāghracarmānivasanāya svāhālokiteśvarāya svāhā – thành tựu đại lực như dũng sĩ
khoác áo da beo, thành tựu quán pháp) 110. Tát ma tất đệ thấp phược la da sa hạ
(sarvasiddheśvarāya svāhā – viên mãn thay! Nhất thiết thành tựu tự tại quán)
111. Nẵng mộ bà nga phạ đế a rị dạ phạ lô chi đế thấp phược ra da mạo địa tát
đát phạ da mang hạ ca lô nãnh ca da (namo bhagavate āryāvalokiteśvarāya mahāsattvāya mahākaruṇikāya – đãnh lễ thánh quán tự tại thế tôn, vị chúng sinh
vĩ đại với lòng từ bi bao la) 112. Tất điện đô danh mãn đa la bạt na da sa hạ
(siddhyantu siddhiyantumantrapadāya svāhā – viên mãn thay! Sự thành tựu mệnh cú
mật ngôn).
Tạm dịch:
Đãnh lễ Tam bảo, đãnh lễ bậc thánh quán tự tại [người làm chủ cái thấy của
mình], vị đại hữu tình có trí tuệ và lòng từ mẫn bao la. Vị mà mọi trói buộc đã
bị chặt dứt và làm cho biển khổ khô cạn. Vị mà mọi phiền não bức bách, mọi sự sợ
hãi được cứu độ và đã được tịnh hóa toàn diện.
Tôi đãnh lễ như vậy, bậc thánh quán tự tại mà đó là nơi tôi an trú. Đây gọi
là tính tinh hoa hiền thiện thuận giáo tâm.
Do đó tôi tuyên bố.
Mọi lợi lạc đắc thành, siêu việt tất cả hữu thể, vì đó là đạo trình đưa đến
thanh tịnh. Oṃ! Trong thế gian mà đi ra ngoài
thế gian. Oṃ!
Trong thế gian mà siêu xuất thế gian. Vui thay! Đại bồ đề. Vui thay! Đại bồ tát.
Vui thay tinh tấn bồ tát. Vui thay! Bậc thánh siêu thế gian. Vui thay! Đấng đại
bi, luôn trì niệm tâm lành. Trong sự nghiệp lại làm nên nghiệp lớn. Nương vào sự
thành tựu minh chú mà tôi được đưa vào thệ nguyện, siêu ma chướng thành tựu
du-già. Trong phép du già thành bậc hành không, bậc đại hành không. Chinh phục,
chinh phục, đại chinh phục ác ma. Thánh quán tự tại có diệu tướng của bậc thắng
tử, với tướng nhục kế như mão lưu ly buông thành tràng hoa; [đó là] bậc trì giữ
đại minh chú, thệ nguyện, thệ nguyên, đại thệ nguyện; hàng phục, hàng phục, đại
hàng phục ác ma; hành giả, hành giả, đại hành giả. Vui thay! Bậc có bàn tay sen
mà tính tự tại của ngài [tạo nên] sự liên hệ nhuần nhuyển [như dược tính trích
từ loài rắn hổ mang.] Viên mãn thay! Tướng của đại binh đoàn [trư diện - tướng
của loài heo rừng độc chiếc = loài heo rừng có một nanh] vượt tam độc một cách
tự tại. Vui thay! Đấng thanh cảnh, con đường chuyển tải thệ nguyện, tạo nên hiệu
ứng vĩ đại. Tiêu diệt, tiêu diệt độc tố thế gian phát sinh: tam độc tham, sân và
si. Tốc thắng, đại tốc thắng chúng ma, người tạo ra tương lai trong bông sen vĩ
đại. Kiên cố, vô hoại diệt. Kiết tường đại kiết tường. Tuôn chảy, tuôn chảy cam
lộ. [Hởi] thần chinh phục Muru, muru, kẻ được giác ngộ, giác ngộ. Giác ngộ, giác
ngộ. Trong sự bao dung, đấng thanh cảnh [hải đảo hương sơn]. Vui thay! Tướng sư
tử trụ. Nụ cười, nụ cười đại khai giải thoát. Ồ! Vui thay đấng thành tựu vô
nhiễm. Trong ngôn âm thành tựu minh tuệ, từ ức niệm chân thật quán chiếu chủng
tử viên đức mà Thế Tự Tại Vương như lai khai thị cho tôi, cái nhìn từ ái, thành
tựu tâm hoan duyệt. Viên mãn thành tựu, viên mãn đại thành tựu. Viên mãn pháp
du-già tự tại. Viên mãn pháp âm từ bi [thanh cảnh tướng]. Viên mãn trư diện [
loài heo rừng độc chiếc]. Viên mãn tướng đại mãnh sư. Thành tựu trì minh chú.
Thấu đạt viên mãn tinh hoa pháp Phật [như viên ngọc quý được sở hữu]. Thành tựu
quán sát, thành tựu đại lực như dũng sĩ khoác áo da beo. Viên mãn thay! Phương
tiện quyền trượng và xa luân. Viên mãn thay! Loa pháp cổ vũ đại giác. Viên mãn
thay! Bậc chiến thắng bóng tối do uẩn xứ tạo nên. Viên mãn thay! Nhất thiết
thành tựu tự tại quán. Đãnh lễ thánh quán tự tại thế tôn, vị đại hữu tình có
lòng bi vô hạn lượng. Viên mãn thay! sự thành tựu mệnh cú mật ngôn.
Bản Đại Bi chú của
Bất không (Q.9,
Phật Giáo Tiểu Bách Khoa )
Nam mô hạt la đát na đá la dạ gia
(namo ratna trayāya – đãnh lễ Tam bảo) 2.
Nam
mô a lị gia (namaḥ ārya – đãnh lễ bậc thánh) 3. Bà lô yết đế thước bát
la gia (āvalokiteśvarāya – quán tự tại) 4. Bồ đề tát đỏa bà gia (boddhisattvāya
– bồ tát; chúng sinh có trí tuệ hay giác tính) 5. Ma ha tát đỏa bà gia
(mahāsattvāya – chúng sinh vĩ đại) 6. Ma ha ca rô ni ca gia (mahā kāruṇikāya – đại bi; lòng từ mẫn vĩ đại) 7. Án (oṃ - quy mệnh) 8. Tát bà la phạt duệ (sarvabhayeṣu – với tất cả sự tôn kính; sarva rabhaye – dũng mãnh
bất giải đãi) 9. Số đát na đát tỏa (trāṇakarāya – cứu độ và giáo dục theo
con đường chân chính; śuddhānādasya – chánh giáo) 10.
Nam
mô tất kiết lật đỏa y mông a lị gia (tasmai namas kṛtvā imaṃārya – kính lễ bậc thánh như thế
của tôi) 11. Bà lô cát đế thất phật ra lăng đà bà (āvalokiteśvarāya [laṃtabha] – hải đảo hương sơn quán tự
tại) 12. Nam mô na la cẩn trì (namo nilakaṇṭha – đãnh lễ đấng thanh cảnh) 13.
Hê lị ma ha bàn đa sa mế (hṛ dayaṃ āvartajisy āmi – phóng đại quang
minh) 14. Tát bà a tha đậu du bằng (sarvātha s ādhanaṃ śubhaṃ - hoàn toàn vô tham nghiêm tịnh)
15. A thệ dựng (ajeyaṃ - vô tỷ; không thể so sánh) 16.
Tát bà tát đa na ma bà già (sarva bhūtānaṃ - thực tướng tuyệt đối) 17. Ma
phạt đạt đậu (bhavamārgaviśuddhakaṃ - mở ra con đường dẫn đến thanh tịnh) 18. Tát điệt
tha (tadhyathā – do vậy, đó được gọi là) Oṃ à bà lô hê (āloke ālokemati – quy
mệnh quán tự tại) 19. Lô ca đế ca la đế (lokati krānte – không hành quán) 20.
(hehe) hare (tâm sinh hoa sen) 21. Mahā boddhisattva (đại bồ tát) 22. Tát bà tát
bà (sarva sarva – tất cả tất cả) 23. Ma la mala (smara smara – ly cấu) 24. ma hê
ma hê lị đà dựng (masī hṛdayaṃ - khảo sát tâm tính) 25. Câu lô
câu lô yết mông (kuru kuru karmaṃ- thực hiện đại nghiệp). 26. Độ lô
độ lô phạt xà gia đế ([sādhaya sādhaya]
dhuru dhuru vijayante – bậc thánh cứu độ ta) 27. Ma ha phạt xà gia đế (mah
āvijayante – bậc đại thánh tôn) 28. Đà la đà la (dhāra dhāra – gia trì gia trì;
năng trì) 29. Địa lị ni (dharendra [dhiriṇi] – phóng
áng sáng [bất luận nữ nam]) 30. Thất phật la
gia (Iśvara – tự tại) 31. Giá la giá la (cala cala – hành động; hoạt động) 32.
Ma ma phạt ma la (mana vimala – ly cấu là pháp tôi thọ trì). 33. Mục đế lệ
(mukte – giải thoát) 34. Y hê di hê (ehy ehi – giáo ngữ; thuận giáo tâm) 35.
Thất na thất na (sina sina – người chiến sĩ) 36. A la sâm phạt la xá lợi (araṣim
bhala śari – Quán không đối với bản năng) 37. Phạt sa phạt sâm (dveṣa viṣaṃ -
hoan hỷ) 38. Phạt la xá gia (vināśaya – Phật kim cang xử) 39. Hô lô hô lô ma la (hulu hulu mala
[mohacalaviṣaṃ
vināśaya] – tác pháp vô cấu ) 40. Hô lô hô lô hê rị (hulu hulu mala [hulu hulu
hare] – tác pháp tùy tâm) 41. Sala sala (sara sara – người kiên định) 42. Tất lị
tất lị (siri siri – dũng mãnh) 43. Tô rô tô rô (sru sru – cam lộ) 44. Bồ đề dạ
bồ đề dạ (buddhiya buddhiya – khiến tỉnh thức, giác đạo) 45. Bồ đà dạ bồ đà dạ
(bodhya bodhya – người tỉnh thức, giác giả) 46. Di đế lị dạ (maitriya - đại bi
tâm) 47. Na la cẩn trì (nilakaṇṭha –
thanh cảnh; căn âm thanh tịnh – đấng Hiền Thiện) 48. Tha lị sắt ni na ([kamasya]
dhaṣaṇāṃ - cứng rắn
và sắc bén; kiên lợi) 49. Ba dạ ma na (prahrādaya mānaḥ - danh văn; [abhaya maṇa – tâm vô úy]) 50. Sa bà ha (svāhā – thành tựu) 51. Tất
đà dạ (siddhāya – thành tựu; nhận thực được cái như thị) 52. Sa bà ha (svāhā –
thành tựu) 53. Ma ha tất đà dạ (mahā siddhāya – đại thành tựu) 54. Sa bà ha
(svāhā – thành tựu) 55. Tất đà du nghệ (siddhayoga – thành tựu pháp du-già) 56.
Thất bàn ra dạ (iśvara – tự tại) 57. Sa bà ha (svāhā – thành tựu) 58. Na la cẩn
trì (nilakaṇṭha – thanh cảnh; căn âm thanh tịnh – đấng Hiền Thiện) 59.
Sa bà ha (svāhā – thành tựu) 60. Pravarāha mukhāya (tướng heo rừng độc chiếc)
61. Sa bà ha (svāhā – thành tựu) 62. Tất la tăng a mục khư da (siṃhamukhāya – sư tử tướng) 63. Sa bà ha (svāhā – thành tựu)
64. Sa bà ma ha a tất đà dạ (sarva mahāmuktāya – mọi châu báu vĩ đại) 65. Sa bà
ha (svāhā – thành tựu) 66. Giả cát la a tất đà dạ (cakrā yudhāya – chinh phục ma
oán bằng quyền trượng và xa luân) 67. Sa bà ha (svāhā – thành tựu) 68. Ba đà ma
yết tất đà dạ (padmahastāya – tay sen; hồng liên hoa) 69. Sa bà ha (svāhā –
thành tựu) 70. Na la cẩn trì bàn già la da (nilakaṇṭha śaṇkha rāja –
loa pháp vương cổ vũ giác ngộ bằng thanh cảnh [cần cổ màu xanh: ngôn căn thanh
tịnh]) 71. Sa bà ha (svāhā – thành tựu) 72. Nam mô hạt la đát na đá la dạ gia (namo
ratna trayāya – đãnh lễ Tam bảo) 73. Nam mô a lị gia (namaḥ
ārya – đãnh lễ bậc thánh) 74. Bà lô yết đế thước bàn la gia (āvalokiteśvarāya –
quán tự tại) 75. Sa bà ha (svāhā – thành tựu) 76. Án tất điện đô (oṃ
sidhyantu – khiến ta thành tựu) 77. Mạn đa la (mantra – mật chú) 78. Bạt đà dạ
(cú; mệnh cú) 79. Sa bà ha (svāhā – thành tựu).
Bản Đại Bi
chú âm dịch của Bất không, về mặt văn nghĩa không khác bao nhiêu với bản âm dịch
của Kim cang trí. Cho dù là chênh lệch tới 33 câu. (Ở đây, xin tham khảo bản
Việt dịch của cư sĩ Huyền thanh trong Thiên Thủ Thiên Nhãn Quán Âm Đà La Kinh)
và, theo tôi đây là bản dịch tuyệt vời nhất, hay hơn cả bản Hán dịch của nhóm
“Phật Giáo Tiểu Bách Khoa “. Tuy nhiên, trên thực tế, thì mọi dịch bản đều y
trên cách ký tự của Trung Hoa. Xét về mặt văn bản, thì ta chưa có một Phạn bản
đích thực nào. Vì dựa trên “ký âm” của ngôn ngữ tất-đàn, cho nên mọi hình thái
liên quan đến ngữ pháp đều có vẻ bất toàn. Người dịch, khi dịch bản chú Đại Bi
này, đều đựa trên kiến thức văn phạm Phạn ngữ và Phật học ít oi của mình để
dịch, nên độ chính xác, là tính chính xác trên tư kiến tích lũy, chớ không phải
trên ngữ nguồn. Tính chính xác duy nhất của bài chú này, là ở Hán bản, chớ không
là Phạn bản mà ta vừa nêu. Do vậy, công việc trình dịch của bản văn ấy, nếu như
có thể là một môi trường đề từ đó ta vươn đến một ngữ nguồn đích thực của bài
Mật chú ấy, thì công đức khó thể nghĩ bàn. Tuy nhiên, có một sự thật mà ta phải
thừa nhận, mật chú là dùng “âm thanh” để giáo hóa và, nhất là thuộc về thể văn
nói, cho nên nó không thể dùng hệ thống ngôn ngữ học rọi soi, y như người Huế
của ta khi cuối một phát ngôn, thì họ thường đệm vào một vài từ nào đó, chẳng
hạn “mà ná” để viên thành âm tiết. Mật chú cũng thế, vì là một thể loại của văn
nói, cho nên có những hình thái chữ vốn vô nghĩa, thiển nghĩ, chỉ làm tròn “âm
ba” mà thôi. Do vậy, các dịch giả, khi dịch chúng, thường là cưỡng dịch. Như siṇa, muṃca, dhuru,
turu….
Vì thế, học
thuyết “ngủ bất phiên” của Huyền Tráng vẫn luôn đúng và luôn đúng trong mật
ngôn. Khi giảng pháp cho người Tây Phương, đức Dalai Lama, thường hay giảng dịch
những bài chú phổ thông và ngắn, như Lục
tự đại minh chân ngôn, hay bài chú Bát Nhã … và, chỉ giới hạn ở chừng ấy. Bởi vì, người Tây Phương,
“thụ lý’ trước, rồi mới “tín thọ phụng hành’ sau. Theo tôi, dịch Mật chú, trong
một chừng mực nào đó, cũng chỉ là phương tiện, cái chính vẫn là tâm thành trì
tụng. Còn những công trình như công trình biên dịch của cư sỹ
Huyền thanh, phải nói là những công trình mà ta nên tán thán và “vị tằng hữu”.
Tất nhiên, ở đây không luận bàn chuyện đúng hay sai, bởi vì
Mật Âm có con đường đi riêng của nó.
Và, con đường
riêng ấy, chỉ dành cho người trì tụng nó trước
Tam Bảo mà thôi.