Lời nói chân thật là một trong
thập thiện nghiệp mà người hành trì không những đem lại lợi ích cho mình
mà còn góp phần xây dựng một xã hội đạo đức. Vì muốn được trật tự, xã
hội cần đòi hỏi một số điều kiện trong đó có sự tín nhiệm lẫn nhau nhờ
mọi người đều chân thật.
Đoạn kinh sau đây mô tả một người chân thật:
"Ở
đây một người thiện nam từ bỏ sự giả dối, xa lánh vọng ngữ, nói lời
chân thật dù ở nơi hội họp đứng đắn, giữa đám đông, trong tư gia với bà
con thân thuộc, trong nhiệm sở hay khi làm nhân chứng tại pháp đình....
Như vậy, người ấy sẽ không vì cá nhân mình, không vì ai khác, cũng không
vì một lợi lạc vật chất mà cố ý nói sai sự thật". (Sāleyyaka Sutta M.I,
228).
Thật ra chánh ngữ không phải chỉ giới hạn trong lời nói chân thật mà còn cần phải:
-
Tránh dùng lời phao vu để chia rẽ, hay gây bất hoà giữa người này với
người khác, trái lại phải tìm cách đem lại hoà hợp và thông cảm giữa mọi
người.
- Tránh dùng lời thô lỗ để hạ nhục kẻ khác, trái lại phải
nói lời thanh tao, hoà nhã, lịch sự, lễ độ để an ủi, khuyến khích hay
thuyết phục kẻ khác.
- Tránh những câu chuyện phiếm vô bổ, phải nói đúng lúc, hợp lý và hữu ích.
Cũng có trường hợp, khi chúng ta nói chân thật và lễ độ mà vẫn chạm đến tự ái của kẻ khác khiến họ phật lòng.
Tuy
thế đôi khi cần phải nói sự thật dù có mất lòng nhưng hữu ích. Như vị
bác sĩ muốn chữa một vết thương của bệnh nhân đôi khi không thể không
gây cho bệnh nhân một chút đau đớn, vì nếu không đụng đến vết thương thì
làm sao điều trị được.
Vì thế trong kinh Abhayarājakumāra có phân loại lời nói theo chân, thiện và mỹ như sau:
1) LỜI NÓI CHÂN, MỸ, THIỆN.
Tức
là lời chân thật, khả ái và có lợi cho người nghe. Chữ mỹ ở đây dùng
với nghĩa đẹp lòng người, làm cho người hoan hỷ khi nghe. Như trường hợp
Đức Phật thuyết pháp, Ngài trình bày chân lý (chân) để chuyển mê khai
ngộ cho chúng sanh (thiện) và khi nghe xong thính chúng đều hoan hỷ (mỹ)
chấp nhận.
2) LỜI NÓI CHÂN, THIỆN, KHÔNG MỸ.
Tức
là lời chân thật, có lợi cho người nghe nhưng không làm cho họ vui
lòng. Đó là trường hợp "trung ngôn nghịch nhĩ lợi ư hạnh". Lời nói không
mỹ ở đây có hai nghĩa: một là lời nói thô lỗ, hai là tuy không thô lỗ
nhưng làm cho người nghe khó chịu. Có khi vì lời nói cộc cằn làm cho
người nghe nổi giận, nhưng có khi lời nói lễ độ mà vẫn chạm tự ái kẻ
khác.
3) LỜI NÓI CHÂN, MỸ, KHÔNG THIỆN.
Tức
là lời nói chân thật, đẹp lòng người nhưng vô ích. Như kể một chuyện
tuy thật và làm cho người nghe vui tai nhưng không đem lại lợi ích gì
cả, có khi chỉ làm mất thì giờ hoặc thậm chí còn có hại.
4) LỜI NÓI CHÂN, KHÔNG THIỆN, KHÔNG MỸ.
Tức
là lời nói chân thật nhưng vô ích và làm người nghe bực mình. Nhiều
người bất cứ nghe thấy chuyện thị phi ở đâu cũng đem kể lại cho bạn bè,
thân thuộc nghe. Hoặc có người lại thường đem những chuyện đời tư nói
với người khác để khoe khoang thành công hay phân bua thất bại của mình.
Những chuyện đó tuy là sự thật, nhưng không ích gì cho người nghe, và
chỉ làm phiền lòng họ.
5) LỜI NÓI KHÔNG CHÂN, NHƯNG THIỆN VÀ MỸ.
Tức
là lời không đúng sự thật nhưng có ích lợi và làm người nghe hoan hỷ.
Như trường hợp vì cứu người nào đó (thiện) mà phải nói dối (không chân)
và nhờ nói khéo léo nên người nghe vui lòng (mỹ).
6) LỜI NÓI KHÔNG CHÂN, KHÔNG THIỆN NHƯNG MỸ.
Tức
là lời nói giả dối, vô ích nhưng người nghe lại thích. Nhiều người nói
ba hoa, khoác lác vô tích sự, thế mà vì có tài ăn nói khéo léo, thông
suốt nên ai cũng thích nghe.
7) LỜI NÓI KHÔNG CHÂN, KHÔNG MỸ NHƯNG THIỆN.
Tức
là lời nói dối, khó chịu, nhưng có lợi cho người nghe. Ví dụ như một
người mẹ muốn cho con mình học giỏi (thiện) đã la mắng (không mỹ) và dọa
đứa bé nếu không học thuộc bài sẽ bị đuổi ra khỏi nhà (không chân).
8) LỜI NÓI KHÔNG CHÂN, KHÔNG THIỆN, KHÔNG MỸ.
Là
lời nói giả dối, vô ích và làm người nghe bực tức. Như trường hợp nói
vu khống, nhục mạ, hoặc nói thêu dệt để chia rẽ người khác. Đó là lời
nói của người dối trá, hung ác, và thô lổ.
Trong tám cách trên,
cách thứ nhất và cách thứ hai được Đức Phật cũng như các bậc hiền nhân
khuyến khích. Kinh Abhayaràjakumàra dạy tiếp rằng: "Người nên nói lời
hợp thời mà người biết là đúng với sự thật, xác đáng, hữu ích, có thể
chấp nhận được và làm cho kẻ khác hoan hỷ (loại thứ nhất). Người cũng có
thể nói lời hợp thời mà người biết là đúng với sự thật, xác đáng, hữu
ích, có thể chấp nhận đuợc tuy không làm cho kẻ khác hoan hỷ (loại thứ
hai). Người không nên nói lời giả dối, và cần phải tìm sự thật, nói sự
thật vì hành động đó nâng cao hạnh phúc cá nhân của người cũng như sự
điều hoà và tiến bộ xã hội". Trong đoạn kinh khác Đức Phật mô tả lời nói
của bậc thiện trí với năm điều kiện:
1) Phát biểu đúng lúc (Kālavādī):
Như
chúng ta đã thấy ở trên, có khi một lời chân thật nhưng không được phát
biểu đúng lúc thì thành ra vô ích hoặc làm cho người khác bực mình.
Người thiện trí phải tế nhị để áp dụng lời nói của mình đúng chỗ, đúng
lúc.
2) Hợp với sự thật (Bhūtavadī):
Bậc
thiện trí thức nói một lời phải dựa trên sự thật, không ngụy biện, không
lừa dối. Tuy vậy nói sự thật chưa đủ, cần phải có điều kiện sau đây bổ
túc:
3) Đem lại lợi ích (Atthavādī):
Lời
nói phải có mục đích và ý nghĩa của nó, dù là lời nói chân thật nhưng
không có mục đích đem lại lợi ích cho ai, thì đó cũng là lời nói nhảm
nhí, vô dụng.
4) Thích ứng với đạo lý (Dhammavādi):
Dhamma ở đây có nghĩa là đạo lý. Lời nói hợp đạo lý có nghĩa là phải hợp lý, hợp tình và hợp với chánh pháp.
5) Hợp với đạo đức (Vinayavādi):
Giá
trị của lời nói còn phụ thuộc tính cách đạo đức của nó. Nếu một lời nói
có đủ bốn yếu tố trên nhưng không hợp với luật pháp hay luân thường đạo
lý thì vẫn nguy hiểm. Trong phần phân tích tám lời nói trên, chúng ta
dùng chữ thiện với nghĩa hữu ích. Nhưng đôi khi có lợi ích chưa hẳn là
thiện, như khi nói trục lợi, vụ lợi người ta thường dùng với nghĩa bất
thiện. Vì vậy lời nói thiện phải vừa có ích vừa lương thiện, nghĩa là
phải hợp với đạo đức nữa mới được.
Theo kinh điển có 10 điều lợi ích và hợp với đạo đức nên bàn luận là:
1) Nên nói về đức từ bi bác ái vì lòng từ ái giúp chúng ta có tâm hồn vị tha, không tham lam, ích kỷ, bỏn xẻn và tật đố.
2) Nên nói về đức tính tri túc để giúp ta bỏ nhiều ước vọng thái quá, và sống an vui trong bất kỳ hoàn cảnh nào.
3) Nên nói về đức thanh tịnh để giúp cho tâm hồn trầm tĩnh, trong sạch và tự tại.
4) Nên nói về đức tính độc lập để giúp chúng ta không xu hướng phe phái, không ỷ lại và phát triển đức tự tin.
5) Nên nói về đức tinh tấn để giúp ta từ bỏ tính biếng nhác, do dự và bất nhất.
6) Nên nói về giới hạnh vì giới hạnh có khả năng loại bỏ những thói hư tật xấu mà ta đã tập nhiễm từ vô lượng kiếp đến nay.
7) Nên nói về thiền định vì thiền định có khả năng tiêu trừ dục vọng, oán thù và phát triển sức mạnh tinh thần.
8) Nên nói về trí tuệ để giúp ta rèn luyện đức sáng suốt, phát triển trí năng hầu thấu triệt chân lý.
9) Nên nói về giải thoát vì tâm giải thoát là mục đích của người Phật tử trên đường giải phóng tâm ra khỏi vô minh phiền não.
10)
Nên nói về tri kiến giải thoát, tức là nói đến sự thực chứng giải thoát
của Đức Phật và chư Thánh nhân. Sự thực chứng đó giúp chúng ta vững tin
trên đường tu tập vì biết rằng chúng ta đang đi trên con đường mà tiền
nhân đã từng trải nghiệm và thực chứng. Nếu tinh tấn giác niệm một cách
đúng đắn chúng ta cũng thể nghiệm được tri kiến giải thoát như các Ngài.
Tóm
lại, lời nói có ảnh hưởng vô cùng quan trọng không những đối với đời
sống hạnh phúc của mỗi cá nhân mà còn có thể định đoạt được cả sự an
nguy của xã hội. Lời nói của một nhân vật có uy tín bao nhiêu lại càng
phải thận trọng bấy nhiêu. Chính vì thế mà Đức Phật đã đưa chánh ngữ vào
Bát Chánh Đạo, con đường dẫn đến giải thoát giác ngộ.
Viên Minh và Trần Minh Tài
http://www.thienviendaidang.net/02tintuc/tintuc.php?readmore=6948