Để giúp đỡ quý vị Phật
tử có được sự chuẩn bị và tri kiến cần thiết khi tham dự Pháp hội, Drukpa Việt
Nam xin giới thiệu toát yếu các khai thị của Đức Pháp Vương Gyalwang Drukpa và
Đức Nhiếp Chính Vương Gyalwa Dokhampa về phương pháp thực hành các pháp tu trì
này.
I.
Pháp tu Bản tôn Phật Quan Âm
- Lợi
ích của Pháp tu Bản tôn Quan Âm
Lòng từ bi là sự quan
tâm bình đẳng đến những người khác cho dù họ có là người xa lạ hay thậm chí
đang làm tổn hại bạn. Trưởng dưỡng lòng từ bi từ tận đáy lòng là thiện hạnh rất
quan trọng của loài người bởi lòng từ bi có công năng cứu rỗi thế giới. Nếu
không có lòng từ bi tỏa khắp, thế giới sẽ trở nên tồi tệ gấp hàng triệu lần so
với bây giờ, sẽ đắm chìm trong chiến tranh chết chóc, nạn đói, bệnh tật, thiên
tai và các loại thảm họa dẫn dắt bởi nghiệp xấu cộng dồn từ khắp các chúng
sinh. Tuy vậy, để phát triển lòng từ bi thì sự cầu nguyện không đủ, sự hiểu biết
thông minh hay kiến thức uyên bác về triết học cũng không đủ mà chúng ta cần thực
hành thiền định, và đặc biệt, điều quan trọng nhất là cần có sự hướng đạo từ một
bậc Căn bản thượng sư giác ngộ để đón nhận quán đỉnh gia trì đặc biệt của Bản
Tôn Phật Quan Âm.
Đức Phật Quan Âm là hiện
thân từ bi của tất cả chư Phật. Pháp thực hành Bản tôn Quan Âm có mục đích
chính là phát triển lòng từ bi trong tâm mỗi người và tất cả chúng sinh. Tình
thương yêu và trí tuệ hiểu biết của Đức Quán Âm đã kết hợp hài hòa trọn vẹn,
phát triển viên mãn. Bởi vậy Ngài đã thể hiện muôn ngàn hình tướng: Đức Quan Âm
Nghìn Tay Nghìn Mắt, Đức Quan Âm Tứ Thủ, Đức Quan Âm Hai Tay hay là hiện thân của
các Đức Tara. Tất cả hiện thân của các Ngài để tùy theo sự mong cầu của chúng
sinh. Bắt nguồn từ trí tuệ và tình thương yêu, các Ngài hiện thân vô số để có
thể cứu độ, cứu giúp, nâng đỡ cho tất cả chúng sinh, đem hạnh phúc đến cho tất
cả mọi người. Đó là ý nghĩa chân thật của Đức Phật Quan Âm.
Phương pháp thực hành về
Đức Phật Quán Âm chính là phương pháp để bảo vệ, hộ trì và viên mãn mọi ước
nguyện của chúng ta. Chúng ta thực hành pháp tu tập của Đức Phật Quán Âm để
phát triển Bồ đề tâm, quán chiếu để nhận ra tất cả chúng sinh trong sáu đạo luân
hồi đang trôi lăn trong đau khổ không phải là ai xa lạ mà chính là cha mẹ của
chúng ta, người thân của chúng ta từ nhiều đời nhiều kiếp. Chúng ta sẽ thấy được
trách nhiệm của mình đối với những gì cha mẹ, người thân của chúng ta mong muốn.
Họ mong cầu hạnh phúc, sợ hãi khổ đau. Bởi vậy chúng ta nhận ra được cha mẹ của
chúng ta, người thân của chúng ta, chúng ta sẽ thực hành Bồ đề tâm, hết lòng
đem thiện hạnh để có thể chia sẻ hạnh phúc đến cho tất cả chúng sinh.
Khi Bồ đề tâm chân thật
đã thực sự phát triển trong lòng chúng ta thì năng lực của Bồ đề tâm sẽ có thể
bảo vệ cho chúng ta thoát khỏi mọi khó khăn, thoát khỏi mọi nguy hiểm và trên
thế gian này không có một sức mạnh nào có thể làm tổn hại chúng ta được nữa. Ví
dụ như thời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni – Khi Ngài còn tại thế, Devadatta (Đề Bà Đạt
Đa) là anh họ của Đức Phật thường tật đố ghen tị với Ngài và tìm mọi cách để hại
Ngài. Có một lần, Đề Bà Đạt Đa xui thái tử A Xà Thế chuốc cho một con voi uống
rượu say rồi thả voi ra để làm hại Đức Phật. Khi con voi xông tới, tất cả chúng
Tăng đều sợ hãi dạt sang hai bên, duy chỉ có Đức Phật với lòng từ bi, với tình
thương yêu chân thật, Đức Phật hướng về con voi say, và đột nhiên con voi đang
hung dữ như nhận được năng lực và từ trường tình yêu thương của Đức Phật Thích
Ca gửi đến, nó đã phủ phục và quy y với Ngài. Câu chuyện để chứng minh rằng, với
năng lực mạnh mẽ của Bồ đề tâm, với sức mạnh của tình thương yêu vô điều kiện
có thể bảo hộ thoát khỏi tất cả những tai nạn. Cũng như sức mạnh năng lực của Bồ
đề tâm vẫn có thể chuyển hóa được tâm giận dữ, si mê của con voi say hoang dại.
Trong Kinh điển Đại Thừa,
Đức Phật Thích Ca đã dạy rằng: “Dù trong một khoảnh khắc, dù trong một giây
phút, nếu có người phát Bồ đề tâm với mong nguyện tu tập giác ngộ để cứu độ cho
hết thảy chúng sinh thì công đức của người phát Bồ đề tâm ấy lớn khắp, rộng khắp
hư không cũng không thể chứa hết”. Như vậy, năng lực và sức mạnh của Bồ đề tâm
có thể giúp cho chúng ta tích lũy vô lượng công đức.
Trong Kim Cương Thừa,
phương pháp tu tập để phát triển Bồ đề tâm, phương pháp tu gần gũi và căn bản,
chính là pháp tu về Đức Phật Quán Thế Âm. Bằng cách chúng ta tu tập quán tưởng
Đức Phật Quán Thế Âm, sự hiện thân của Ngài chính là hiện thân của sự hợp
nhất giữa trí tuệ và từ bi, tình thương yêu, lòng bi mẫn, sự hợp nhất hoàn
toàn. Bởi vậy, nhờ tâm chúng ta quán tưởng Ngài sẽ được thăng hoa tới mức độ
thanh tịnh và miệng chúng ta trì chân ngôn của Ngài dần dần Bồ đề tâm trong
chúng ta sẽ được phát triển viên mãn. Thông qua phương pháp tu tập phát triển Bồ
đề tâm, phương pháp tu tập phát triển về Đức Phật Quan Âm, trì tụng chân ngôn
và quán tưởng hình ảnh của Ngài sẽ giúp cho chúng ta phát triển được tình
thương yêu, sự hiểu biết và những hành động thiện hạnh để có thể lợi ích hết thảy
mọi loài.
- Ý
nghĩa hình ảnh Bản tôn
Đức Quan Thế Âm Tự Tại
vì lòng từ bi phát khởi bi nguyện muốn cứu độ chúng sinh thoát khỏi vô minh mê
vọng, không phải chịu khổ trong ba đường ác. Đức Phật Di Đà phóng quang gia trì
khiến đức Quan Âm hoá hiện mười một đầu, đầu trên cùng là Đức Phật Di Đà và
pháp tướng Ngài có nghìn mắt nghìn tay để có thêm phương tiện tức tốc cứu độ
chúng sinh. Thân Ngài sắc trắng, 11 đầu, có một đầu hiện tướng phẫn nộ.
Ý nghĩa chi tiết
của hình ảnh Thangka Phật Bản tôn Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn như sau:
Đức Quan Âm Thiên Thủ
Thiên Nhãn đứng trên tòa sen trong tư thế chữ nhất, nêu biểu sự hợp nhất của
lòng từ bi và trí tuệ.
Phần hạ y của đức Quan
Âm tượng trưng cho bản tính Phật còn ẩn tàng trong mỗi chúng sinh. Các trang sức,
tua lụa tượng trưng cho các công hạnh giác ngộ của ngài, rất uyển chuyển linh
hoạt trong các cõi. Phần đầu của tua lụa luôn hướng lên, thể hiện chiến thắng
trước tham sân si. Nửa thân dưới có các trang sức và xiêm y nêu biểu cho việc
đem tất cả năng lượng ái dục vào con đường tu tập giác ngộ bởi vì tất cả những
NL tiêu cực ko bị chối bỏ mà chuyển hóa thành đại từ đại bi và trí tuệ và những
công hạnh độ chúng sinh tự lợi lợi tha.
Nửa thân trên của đức
Quan Âm tượng trưng cho tâm Phật đã đựoc chứng ngộ hoàn toàn, không bị che đậy
bởi vô minh tăm tối. Các trang sức nêu biểu cho các công hạnh ba la mật.
Đức Quan Âm Thiên Thủ
Thiên Nhãn có ba lớp tay: trong cùng là 8 tay tượng trưng cho Pháp thân, lớp ở
giữa có 42 tay tượng trưng cho Báo thân, lớp tay ngoài cùng tượng trưng cho Hóa
thân. Các tay của đức Quan Âm tượng trưng cho phương tiện, trên mỗi bàn tay có
một con mắt tượng trưng cho trí tuệ. Con mắt trong lòng bàn tay hàm ý sự hợp nhất
của phương tiện và trí tuệ Phật. Tám cánh tay ở lớp trong cùng tượng trưng hoa
sen tám cánh, đồng thời tương ứng với tứ trí (Đại Viên Cảnh trí, Diệu Quan sát
trí, Bình đẳng tính trí, Thành sở tác trí) và tứ đức (từ, bi, hỷ, xả).
Hai cánh tay trong cùng
của đức Quan Âm đang ôm ngọc Mani. Ngọc Mani là biểu tượng của sự viên mãn tâm
nguyện thế gian và xuất thế gian. Ở ý nghĩa sâu sắc hơn đó là sự giàu có tâm bồ
đề. Hình ảnh bàn tay ôm ngọc mani chính là biểu tượng của sự hợp nhất giữa lòng
từ bi vô lượng và trí tuệ siêu việt của đức Phật.
Các
cánh tay còn lại:
-
cánh tay cầm chuỗi tràng thủy tinh là biểu
tượng của lòng từ bi, sự thanh tịnh và việc lần chuỗi tràng chính là sự cứu độ
liên tục không ngừng nghỉ của ngài
-
cánh tay cầm pháp luân nêu biểu việc
ngài mang giáo pháp của Phật ban trải và cứu độ khắp nơi – chuyển bánh xe pháp
vô ngại của đức Quan Âm (là tượng trưng cho các lần chuyển bánh xe Pháp của đức
Phật vì lợi lạc của hết thảy chúng sinh)
-
cánh tay chỉ xuống là biểu tượng cho vô
úy thí: ngài ban gia trì cho chúng sinh vượt qua sự sợ hãi, vượt qua mọi khổ
đau phiền não, bởi vì chúng sinh từ lúc sinh ra đãbị ám ảnh bởi rất nhiều nỗi sợ hãi (nỗi sợ hãi bao
trùm, từ lúc sinh ra cho tới lúc chết đi: sợ đói, nghèo, bất hạnh, không danh vọng...)chính
vì thế đức Quan Âm hiện cánh tay thí vô úy để cứu khổ ban cho chúng sinh những
viên mãn tâm nguyện thế gian.
-
cánh tay cầm hoa sen: tượng trưng cho Bồ
đề tâm thanh tịnh, phẩm hạnh giác ngộ của chư Phật, cũng như hoa sen mọc từ bùn
mà ko nhiễm nhơ, tiêu biểu cho bản nguyện của ngài vào dời cứu khổ chúng sinh
mà ko bị chi phối
-
cánh tay cầm cung tên: xạ thủ giương
cung mắt-giương cung- dích tren cùng 1 đường) tượng trưng cho sự rõ ràng, hợp
nhất của căn, đạo quả (mục đích, con đường tu tập, và thành tựu). Bàn tay của đức
Quan Âm cầm cung tên tượng trưng cho sự nhất tâm điều phục tất cả mọi vọng tưởng,
giải thoát khỏi luân hồi, đanh bại 4 ma (tử ma, ngũ ấm ma, phiền não ma, thiên
ma).
-
cánh tay cầm bình cam lồ: tượng trưng
cho năng lượng pháp vị cam lồ, tượng trưng sự gia trì của chư Phật để diệt trừ tất cả phiền não đau khổ tham sân si
của chúng sinh
42 tay ở giữa nêu biểu
báo thân Phật, nêu biểu 42 thánh vị tu chứng (thập trụ, thập hạnh, thập địa, thập
hồi hướng, đẳng giác và diệu giác) để cứu độ 25 cõi chúng sinh trải qua 42
thánh vị để thành tựu giác ngộ.
Lớp tay ngoài cùng tượng
trưng cho Hóa thân phật đi tất cả các nẻo trong luân hồi để cứu độ chúng sinh.
Mắt (trí tuệ) trong lòng bàn tay (phương tiện).
Phần đầu của đức Quan
Âm (tiêu biểu cho 11 quả vị giác ngộ): gồm
5 tầng tượng trưng cho ngũ trí Phật; đầu trên cùng là biểu tượng của Pháp thân (đức
Phật Di đà) nêu biểu cho chính đẳng chính giác, tiếp đến là Báo thân (đức Kim
Cương thủ trong hiện tướng phẫn nộ chính là Bất không thành tựu Phật ở phương
nam), 3 tầng dưới (9 đầu còn lại) là biểu tượng của Hóa thân.
Ba khuôn mặt ở giữa nêu biểu cho Đại viên cảnh trí là Đức A
súc bệ ở phương Đông, 3 mặt này hiện tướng từ bi vì thấy chúng sinh làm thiện
mà ngài sinh tâm an lạc, đại từ đại bi. Ba mặt bên trái nêu biểu sự hàng phục
ngã ái – bình đẳng tính trí của đức Bảo sinh Phật ở phương nam. Ba mặt này vì
thấy chúng sinh làm ác mà khởi tâm phẫn nộ, hàng phục chuyển hóa những chúng
sinh cương cường khó độ. Ba khuôn mặt bên phải nêu biểu năng lực thuyết pháp của
Diệu quan sát trí của phật A di Dà ở phương Tây
Đức Quan Âm thiên thủ
thiên nhãn mang trên mình các sức trang hoàng, tương ứng với Ngũ bộ Phật và Ngũ
Trí.
-
Khuyên tai tương ứng với Đức Phật Di đà Diệu
quan sát trí
-
Vòng cổ tương ứng với đức Phật Bảo sinh,
tiêu biểu cho Bình đẳng tính trí
-
Các vòng tay tương ứng với Phật Tỳ lư
giá na, tiêu biểu Pháp giới thể tính trí
-
Đai lưng Phật tương ứng với Phật Bất
không thành tựu, tiêu biểu Thành sở tác trí
-
Mũ (vương miện) tương ứng Phật A súc bệ,
tiêu biểu Đại viên cảnh trí
Ba
lọn tóc của đức Quan Âm nêu biểu năng lực bi, trí, dũng đồng thời tượng trưng
cho tam bình đẳng (Phật, chúng sinh và tâm đều bình đẳng không sai khác.
Đức
Quan Âm khoác tấm da nai, tượng trưng cho bi nguyện đồng sự của ngài. Ngài đi
vào lục đạo luân hồi, đồng cam cộng khổ với chúng sinh.
Tứ phía của bức
Thangka tượng trưng tứ phía với các Bản tôn:
-
Phương Nam: Bản tôn Văn thù tiêu biểu
cho Bảo sinh Phật – Bình đẳng tính trí
-
Phương Tây: bản tôn Bạch độ Mẫu và đức
Phật A Di đà – Diệu quan sát trí
-
Phương Bắc: bản tôn Lục độ Mẫu – Bất
không thành tựu – Thành sở tác trí
-
Phương Đông: bản tôn Kim Cương thủ – A
súc bệ Phật - Đại viên cảnh trí
Đức Di đà ở giữa là
Pháp thân là thể của đức Quan Âm và về phần sự ngài là căn bản thương sư của đức
Quan Âm. Về phần lý Đức Di đà là trí tuệ của pháp thân, Đức Quan Âm là phương
tiện của lòng từ bi. Tuy đức Quan Âm nhập thế cứu độ chúng sinh hoạt động cứu độ
chúng sinh trong khắp nẻo luân hồi nhưng vẫn an trụ trong đại định của đức A di
đà
Ngoài ra trong bức
Thangka còn có các loài hoa tượng trưng cho các công hạnh của Phật, muôn thú vạn
loài hữu tình đều hoan hỷ quy y Phật.
Phía dưới bức Thangka
là ngọc Mani, tượng trưng cho sự giàu có của tâm Bồ đề (phần lý), hay là tượng
trưng cho các phẩm vật cúng dường và sự viên mãn tâm nguyện của chúng sinh (phần
sự). Tấm gương là biểu tượng của Đại viên cảnh trí, có thể soi rọi nghiệp chướng
của chúng sinh một cách rõ ràng. Cây đàn là biểu tượng của diệu âm thanh, nêu
biểu 60 diệu âm giác ngộ của Phật.
- Hướng
dẫn thực hành quán tưởng
Trước khi thực hành
pháp tu Đức Phật Quán Thế Âm hay bất kỳ một pháp tu nào của Kim Cương Thừa
thì chúng ta cần phải quy y sau đó phát Bồ đề tâm, đây chính là phần động cơ của
sự thực hành. Sau đấy chúng ta quán tưởng. Quán tưởng xong chúng ta trì tụng
chân ngôn, trì đủ số lượng chúng ta định hướng rồi chúng ta hồi hướng. Trong
phương pháp tu tập của Kim Cương Thừa thì động cơ để dẫn dắt chúng ta đến việc
tu sẽ giúp chúng ta tích lũy được nhiều công đức nhất, cho nên phải quy y phát Bồ
đề tâm để có được động cơ chân thật khi tu tập, vì mục đích lợi ích hữu tình.
Việc hàng ngày tập phát
Bồ đề tâm sẽ giúp chúng ta mỗi ngày, mỗi ngày mở rộng tâm mình rộng lớn hơn,
người nào có thể mở rộng được lòng mình càng nhiều thì sẽ có càng nhiều hạnh
phúc. Giống như một cái nhà, nếu chúng ta có một cái nhà rộng với khoảng không
gian rộng rãi, chúng ta có thể chứa được rất nhiều người bên trong và họ có thể
ngồi hay đi lại một cách thoải mái, nhưng nếu chúng ta có một cái nhà nhỏ hẹp
thì ít người có thể ngồi được bên trong, rồi ngồi thì rất gò bó, cựa quậy là sẽ
chạm vào chỗ nọ, đụng vào chỗ kia, sẽ rất là khó chịu. Cũng như vậy, nếu tâm
chúng ta nhỏ hẹp, chỉ có thể chứa được chính bản thân mình hoặc những người
thân của mình, khi đó ngay cả những người thân của chúng ta cũng dễ dàng đem đến
cho chúng ta nhiều đau khổ bởi vì luôn chạm vào cái bản ngã của chúng ta, rồi
tác động làm cho chúng ta đau khổ. Còn nếu chúng ta biết mở rộng lòng nhiều
hơn, quên đi cái tôi của mình nhiều hơn, quên đi cái ích kỷ, hẹp hòi, bản ngã của
mình càng nhiều bao nhiêu, bầu không gian tâm của chúng ta càng mở rộng được
bao nhiêu thì chúng ta càng có thể chia sẻ tình thương yêu của mình đến nhiều với
chúng sinh và chúng ta mới thực sự có được nguồn chân hạnh phúc.
Tiếp đến là phần thực
hành chính. Hãy quán tưởng ở nơi tim của Đức Phật Quán Thế Âm là một đĩa mặt
trăng, trung tâm của đĩa mặt trăng là chủng tử tự SHRI.,Chúng ta sẽ quán tưởng
quay xung quanh chủng tử tự SHRI là chuỗi chân ngôn OM MANI PADME HUNG đang
chuyển vận theo chiều kim đồng hồ. Hãy quán tưởng từ sáu chữ chủng tử phóng hào
quang theo sáu màu của chữ chủng tử đi vào sáu đạo, cứu khổ cho tất cả chúng
sinh. Tất cả những chúng sinh trong sáu đạo đang phải chịu những nỗi khổ quằn
quại trong sinh tử thì những ánh sáng của sáu chữ Lục tự sẽ đi vào lục đạo nâng
đỡ, xoa dịu và cứu khổ cho chúng sinh. Chẳng hạn như ở cõi súc sinh hiện nay, mỗi
giờ, mỗi giây vì miếng ăn của loài người, vì áo mặc của loài người, hàng tỷ,
hàng triệu chúng sinh đang bị giết hại để thỏa mãn bữa ăn của con người. Những
loài chúng sinh ấy không thể nói được và cũng không có cơ hội để được
nói rằng: Tôi không muốn chết, tôi không muốn bị giết, tôi muốn sống hạnh phúc
như các vị. Khi chúng ta tu tập pháp môn quán tưởng như vậy, ánh sáng của sáu
chữ Lục tự sẽ đi vào mỗi cõi để xoa dịu nỗi khổ và cứu độ cho sáu đạo hữu tình.
Khi chúng ta quán tưởng
sáu chữ chủng tử, chúng ta cần quán tưởng từ bản thân những chữ chủng tử chúng
ta đang trì niệm phóng ra những luồng hào quang rực rỡ. Những luồng hào quang
này hướng về mười phương chư Phật, mang đến cúng dường chư Phật tất cả những phẩm
vật tôn quý nhất trong hình tướng những phẩm vật hương hoa, đăng trà, quả thực.
Cúng dường xong chư Phật, những ánh hào quang này đón nhận sự gia trì từ chư Phật
và quay trở lại chiếu vào sáu đạo hữu tình để xoa dịu, cứu khổ cho hết thảy
chúng sinh.
Khi quán tưởng hình ảnh
Đức Phật Quan Âm, chúng ta không nên quán tưởng Ngài giống như bức tranh hoặc
giống như pho tượng gỗ. Hãy quán tưởng Ngài sống động và phi vật chất. Sống động
giống như tất cả vạn sự vạn pháp đang tồn tại, hiện hữu chứ chúng ta không nên
quán tưởng Ngài một cách cứng nhắc như là bức tranh, như là pho tượng. Chúng ta
cần phải hiểu rằng mặc dù tất cả vạn pháp dường như đang tồn tại một cách
thực hữu và sống động nhưng thật chất chúng tồn tại tùy duyên, là sự
kết hợp của rất nhiều nhân duyên. Thông thường chúng ta bám chấp và đặt danh
cho tất cả vạn pháp. Chúng ta gọi đây là cái cây, kia là ngôi nhà, đây là ô tô,…
Tất cả những quan kiến này là sự bám chấp nặng nề của loài người chúng ta,
chúng ta thường nghĩ rằng giấc mơ là giả còn đời sống hàng ngày là thật. Thật
ra giấc mơ và đời sống hàng ngày thì chúng bình đẳng như nhau, đều giả dối và ảo
tưởng giống nhau.
Khi chúng ta quán tưởng,
nhận rõ tất cả vạn pháp đều có thể do tâm mình biến hiện, kể cả đời sống hàng
ngày của chúng ta đều do tâm biến hiện thì việc tu tập, quán tưởng Đức Phật Quan
Âm chúng ta cũng có thể dùng tâm của mình để quán tưởng Phật. Sau khi kết thúc
phần trì tụng chân ngôn thì chúng ta quán Đức Quan Âm lúc này bất khả phân với
bậc Thầy Căn bản Thượng sư của chúng ta, hòa tan vào trong tâm của chúng ta,
hòa nhập làm một và an trụ trong chính niệm, tỉnh giác, không nghĩ về quá
khứ, không nghĩ về tương lai cũng không phân biệt trong hiện tại, tâm hoàn toàn
thư giãn, thảnh thơi. Đó chính là Pháp thân Quan Âm hay chính là bản chất Phật
tính ở nơi mỗi người.
Kết
thúc của phần tu chính là từng bước chúng ta trở về với Phật tính của chúng ta,
từng bước chúng ta trở về với Đức Quan Âm chân thật trong lòng mình. Hãy an trụ
trong trạng thái này càng lâu càng tốt.
- I.
Pháp
tu Nyungnay
- Giới
thiệu pháp tu Nyungnay
Phương pháp Nyungnay
chính là nghĩa của Bát quan trai giới. Theo Truyền thống của Nguyên thủy Phật
giáo, Bát quan trai giới là tám giới Đức Phật chế lập cho Phật tử tại gia. Vì
gia duyên còn rằng buộc nên chỉ có thể hành trì Bát quan trai giới trong một
ngày, một đêm. Nhưng Bát quan trai giới cũng là căn bản của tất cả Tam thừa. Bởi
khi Bát quan trai giới được thực hành cùng với Bồ đề tâm, phát tâm thực hành
trì Bát quan trai giới với mục đích lợi ích giải thoát cho hết thảy hữu tình
thì tám giới đấy thuộc Bát quan trai giới của Đại thừa. Và Bát quan trai giới
khi kết hợp với Kim Cương thừa, trong ngày thọ Bát quan trai thường được thực
hành với phương pháp cầu nguyện đến Đức Quan Âm Thiên Thủ Thiên Nhãn, và trở
thành pháp Nyungnay.
Trì giới là nền tảng thực
hành Phật pháp và pháp tu Nyungnay
Chúng ta đều biết giáo
lý quan trọng nhất Đức Phật nhắc nhở chúng ta phải tuân thủ và tôn trọng là giáo
lý về Nhân Quả. Một hành giả không có niềm tin và không có trí tuệ hiểu được
giáo lý Nhân Quả sẽ không thực hành được thiện pháp. Vì vạn pháp thế gian này đều
hiện diện theo quy luật Nhân Quả, nên trong tất cả các phương pháp thực hành, chúng
ta thường thực hành bố thí, cúng dàng bởi đây là những hạt giống để tích lũy
công đức trí tuệ. Nhưng điều kiện vô cùng cần thiết và tối quan trọng để thực
hành Phật pháp là chúng ta phải biết trì giới bởi việc trì giới là nền tảng của
công đức. Nền tảng này cũng được ví như mặt đất có thể nuôi dưỡng tất cả cây cỏ,
muôn thú đến loài người, bao nhiêu sự sống đều tồn tại nhờ có mặt đất. Tương tự
như vậy, nếu hành giả không hành trì giới luật sẽ không có phẩm hạnh và không
thể kiểm soát được tâm bị chi phối bởi sát, đạo, dâm, vọng, bị thiêu đốt bởi
tâm tham lam, giận dữ, tật đố, kiêu căng. Khi ấy, những thiện hạnh và phẩm chất
như từ bi, trí tuệ không thể phát triển được. Vì vậy, với tình thương và trí tuệ
vô hạn, Đức Phật Thích Ca đã chế ra giới luật. Đặc biệt, đối với Phật tử tại
gia, vì gia duyên còn ràng buộc nên Ngài đã chế pháp trì giới trong một ngày, một
đêm. Phát nguyện hành trì giới luật trong một ngày, một đêm thanh tịnh cũng
tích lũy được công đức vô lượng, vô biên, kết nhân với sự xuất gia giải thoát.
Đây là lý do chúng ta có pháp thực hành Nyungnay.
Mục đích tối thượng của
Phật pháp, Đức Phật dạy chúng ta vô số các phương pháp thực hành chỉ cùng một mục
đích là chuyển hóa và rèn luyện tâm của chúng ta. Làm thế nào để chúng ta có thể
chuyển hóa các xúc tình phiền não trong lòng mình, những xúc tình thuộc tham
lam, sân giận, tật đố, kiêu căng. Và để chuyển hóa và rèn luyện tâm thì Biệt giải
thoát giới lại là bước đầu tiên, là nền tảng quan trọng nhất giúp chúng ta chuyển
hóa tâm.
Thông thường, trong sự
thực hành trì giới, chúng ta phát nguyện rằng từ nay con sẽ không bao giờ sân
giận, không bao giờ tật đố, không bao giờ kiêu căng. Việc trì giữ nguyện này là
vô cùng khó khăn bởi trong đời sống hàng ngày chúng ta hoàn toàn không tỉnh thức
và thường bị các xúc tình tiêu cực chỉ huy và dẫn dắt. Ngay cả khi sân phát khởi
chúng ta cũng không biết và sau đó chúng ta lại ân hận vì mình đã sân, si. Bởi
vậy để giữ được những giới tâm không phải chuyện đơn giản. Nhưng nếu chúng ta
phát nguyện thọ Biệt giải thoát giới, phát nguyện không sát hại chúng sinh,
không nói dối, không trộm cắp… nhờ giữ gìn Biệt giải thoát giới, từng bước từng
bước chúng ta sẽ dần đi vào tâm giới và chuyển hóa được những xúc tình tiêu cực
trong lòng mình. Bởi vậy, Phật dạy rằng nền tảng căn bản đầu tiên trong Tam vô
lậu học chính là Biệt giải thoát giới. Và Biệt giải thoát giới đóng vai trò vô
cùng quan trọng giúp chúng ta chuyển hóa và rèn luyện tâm mình.
Như vậy nhờ trì giới,
khi chúng ta đã rèn luyện thân chúng ta, khẩu chúng ta được tốt đẹp, tức là
chúng ta đã giữ giới Biệt giải thoát giới của Nguyên thủy Phật giáo một cách tốt
đẹp, thì chúng ta bước đến giai đoạn thứ hai, thêm Bồ đề tâm giới. Bởi vẫn là
những giới Biệt giải thoát đó nhưng chúng ta bắt đầu đi vào động cơ của Bồ đề
tâm. Có nghĩa là động cơ vô ngã, tất cả mọi thiện hạnh, mọi hành trì giới luật
của chúng ta đều hướng về sự giải thoát cho hết thảy chúng sinh. Bởi vậy một vị
Bồ tát khi khởi những tâm niệm ích kỷ chỉ nghĩ về bản thân mình sẽ bị xem là bể
giới nguyện Bồ tát. Khi thọ giới Bồ tát,
chúng ta phát nguyện tất cả mọi hành động, tất cả mọi lời nói, tất cả đời sống
của mình cho dù đi, đứng, nằm, ngồi, cũng chỉ vì lợi ích giải thoát cho hết thảy
hữu tình. Thân này của mình không thuộc về bản thân nữa mà thuộc về tất cả
chúng sinh mẹ đang trôi lăn trong sáu đạo. Mọi hành động đều làm vì lợi ích giải
thoát của tất cả hữu tình. Cho nên khi chúng ta khởi những niệm ích kỷ, chỉ
nghĩ đến bản thân mình, hoặc sân giận, tham lam cho bản ngã, tức là chúng ta bể
giới nguyện của Bồ tát. Bởi vậy giới của Bồ tát hay Bồ đề tâm giới chú trọng
nhiều đến tâm giới, đến tâm vị tha, vô ngã, hoàn toàn hướng về sự lợi ích của hết
thảy hữu tình.
Tiếp theo, giới nguyện
của Kim Cương Thừa là từng niệm, từng niệm chúng ta phải an trụ trong tự tính
vô phân biệt. Đó là lý do tại sao hành giả tu tập Kim Cương Thừa thụ nhận quán
đỉnh, đón nhận sự gia trì từ thân, khẩu, ý giác ngộ của chư Phật Bản tôn, sau
đó, chúng ta được phép quán tự thân mình là Phật, tâm của chúng ta chuyển hóa
thành tâm giác ngộ của Bản tôn và an trụ trong tự tính bất nhị, bất khả phân,
không phân biệt với các Ngài. Bởi hàng ngày, mắt thấy sắc chúng ta phân biệt đẹp
xấu, tai nghe thanh chúng ta phân biệt hay dở. Mỗi tư tưởng hiện khởi chúng ta
phân biệt tốt hay xấu. Tất cả những tư tưởng, sự phân biệt như vậy gọi là bể giới
nguyện của Kim Cương Thừa. Mỗi khi xuất hiện những sự phân biệt, chúng ta phải
để cho tất cả những tâm phân biệt tan vào trong bản chất tự nhiên của chúng.
Trong Bát quan trai giới
chú trọng đến tám giới của cư sĩ, chúng ta sẽ thực hành, phát nguyện trì giữ
Bát quan trai giới, thì bốn giới đầu là bốn giới căn bản, gồm: không sát sinh;
không trộm cắp; không nói dối (gồm có đại vọng ngữ, tức là nói dối mình chứng
thánh nhân, hoặc tiểu vọng ngữ tức là nói dối hai lưỡi độc ác, thêu dệt…); và
không tà dâm. Bốn giới này thường thọ khi chúng ta quy y bởi khi quy y chúng ta
thấy rõ sự bình đẳng giữa hạnh phúc của tất cả chúng sinh với hạnh phúc của
mình. Khi bị đứt tay một chút thôi mình cũng thấy đau đớn, khổ sở. Vậy thì làm
thế nào chúng ta có thể cắt cổ, mổ bụng chúng sinh, sung sướng khi ăn gan, uống
máu của chúng sinh. Bởi thế, một người quy y đã phải trì giữ năm giới. Bốn giới
đầu, tức là bốn việc sát sinh, trộm cắp, tà dâm và nói dối, là những nhân khiến
chúng ta đọa ba đường ác. Phật chế ra bốn giới giúp chúng ta cắt đứt những nhân
đọa ba đường ác. Một giới nữa là không uống rượu, tức là một hành giả tu tập
Bát quan trai giới hay ngũ giới không được phép uống rượu. Giới này giúp chúng
ta đạt được trí tuệ tỉnh thức. Khi chúng ta uống rượu, chúng ta mất trí tuệ,
hoàn toàn không tự chủ và ba nghiệp chúng ta sẽ tạo lỗi lầm. Và ba giới sau tức
là giới không nằm giường cao, tốt, rộng lớn; không xem nghe kỹ nhạc, không
trang điểm; và không ăn phi thời. Ba giới này là ba giới giảm thiểu những nhân
sinh tử và hướng chúng ta theo con đường xuất thế, con đường của chư Phật, Bồ
tát. Bởi cái việc hát hò, xem nghe kỹ nhạc, hay việc trang điểm cho thân thể của
mình, hay việc ngồi giường cao, tốt, rộng lớn đều tăng trưởng sự bám chấp vào bản
ngã. Khi chúng ta bám chấp, yêu quý và chiều chuộng cái thân này nên chúng ta
thích trang điểm, thích nằm giường cao, tốt, rộng lớn hoặc chúng ta thích nghe
hát, xem nhạc… để tiêu khiển. Tất cả những việc làm đó là những việc làm vô
ích, không gieo được những nhân lợi lạc mà đắm chìm thêm nhân của sự đọa lạc
trong luân hồi. Và việc ăn phi thời của chúng ta, tức là trong việc thọ Bát
quan trai, sau mười hai giờ chúng ta không ăn, không ăn mặn, không ăn thịt,
không ăn hành, tỏi trong những ngày thọ Bát quan trai. Việc này vô cùng quan trọng,
bởi buổi chiều là giờ ăn của ngạ quỷ. Khi chúng ta ăn cơm, tất cả các loại quỷ
đói sẽ nổi giận vì quá đói nên khi thấy thức ăn họ bèn nổi lửa tự thiêu. Vì miếng
ăn của chúng ta, biết bao loài quỷ đói phải khổ sở. Bởi vậy, một người hành trì
Bát quan trai giới sẽ không ăn sau bữa trưa, tức là không ăn chiều. Mà ngay cả
cái việc giảm ăn cũng vô cùng lợi ích, vì chúng ta biết rằng, nếu nói vấn đề ăn
mặc tức là phải giết hại chúng sinh, thì
việc đấy đã quá tổn thương tới chúng sinh. Ngay cả việc để trồng lên một cây
lúa, trồng lên một hạt gạo, đã biết bao nhiêu trùng, sâu, bọ phải chết vì hạt gạo
mà chúng ta ăn. Bởi vậy chúng ta giảm được bữa ăn tối là lòng từ bi hướng đến
loài ngạ quỷ, và cũng là lòng từ bi để chúng ta hộ cho tất cả những chúng sinh
bớt sự chết chóc, bản thân chúng ta không gieo nhân trong sinh tử, luân hồi.
Như vậy, tám giới gọi là Bát quan trai giới thì bốn giới đầu là cắt đứt các
nhân đọa lạc trong sinh tử, ba đường ác; một giới sau cắt đứt nhân vô minh,
giúp chúng ta đạt được trí tuệ tỉnh thức. Ba giới cuối giúp chúng ta giảm bớt
những nhân trong sáu đạo và giúp chúng ta hướng theo con đường xuất thế của Phật
và Bồ tát. Bởi vậy đối với Phật tử tại gia, ngày thọ Bát quan trai giới là ngày
chúng ta tập xuất gia một ngày để hướng theo con đường xuất thế của chư Phật, Bồ
tát, đem lại sự giải thoát cho hết thảy hữu tình.
- Hướng
dẫn thực hành Nyungnay
Có rất là nhiều cách để
thọ Bát quan trai giới, chúng ta có thể thọ Bát quan trai giới theo quan kiến của
Nguyên thủy Phật giáo, có nghĩa là phát tâm thọ Bát quan trai để có thể giải
thoát khỏi sáu đạo, để được tập hạnh xuất gia một ngày và gieo nhân xuất thế.
Đó là động cơ theo Nguyên thủy Phật giáo. Nếu chúng ta phát nguyện thọ Bát quan
trai giới vì lợi ích của hết thảy hữu tình, vì sự giải thoát của tất cả chúng
sinh mà chúng ta thọ giới hôm nay. Đấy gọi là thọ Bát quan trai giới theo Đại thừa
Phật giáo. Và chúng ta có thể thực hành Bát quan trai giới theo pháp của Kim
Cương Thừa. Thọ Bát quan trai giới có nghĩa là sáng ngày ra khi minh tướng xuất
hiện, lúc có thể nhìn thấy chỉ tay của mình, chúng ta sẽ giữ giới từ giờ khắc
đó, chúng ta thọ đến ngày hôm sau, giữ giới đến ngày hôm sau. Có bốn cấp độ của
việc trì giữ Bát quan trai theo Kim Cương Thừa. Cấp độ thứ nhất, tức là mục
đích chính của việc thọ Bát quan trai, giảm ăn để chúng ta thiền định trở về với
tâm bất nhị, tâm Phật tính của mình. Khi thọ Bát quan trai, nếu chúng ta không
thể tắm được hết toàn thân của mình thì ít nhất mình cũng phải rửa mặt, rửa tay
chân, sau đó đỉnh lễ quy y, phát Bồ đề tâm và xin thọ giới nguyện. Ngày thứ nhất
thọ giới gọi là Nay, tức là chúng ta có thể uống trà và ăn
một bữa trưa, sau đấy chúng ta trì tụng, đỉnh lễ và thiền định. Nhưng ngày thứ
hai gọi là Nyung, chúng ta lại hoàn
toàn không ăn uống gì cả, nhịn luôn cả ngày, không ăn không nói, tịnh khẩu, miệng
không nói lời nào, hoàn toàn tịnh khẩu, không ăn không uống, chỉ tập trung thực
hành thiền định, giảm thiểu tất cả những hoạt động không cần thiết. Chư Phật, Bồ
tát dạy rằng trong ngày thọ Nyungnay, tức là một ngày chúng ta nhịn đói với động
cơ vì lợi ích, vì sự giải thoát của hết thảy hữu tình, là một ngày chúng ta cắt
được vô số nhân sẽ đọa địa ngục, ngạ quỷ. Bởi vì miệng chúng ta tịnh khẩu, nên
không tạo khẩu nghiệp. Thân chúng ta không đi lại nhiều, không hoạt động, chỉ
thiền định, cho nên chúng ta không tạo ác nghiệp của thân. Và tâm chúng ta tập
trung vào việc thiền định, an trụ trong tự tính tâm của mình, cho nên chúng ta
gieo những nhân giải thoát.
Chúng ta có thể thọ giới
Nyungnay hai ngày, tức là một ngày chúng ta ăn một bữa và một ngày chúng ta nhịn
đói trắng. Hoặc chúng ta có thể phát nguyện thực hành bốn ngày, tám ngày, bao
nhiêu ngày tùy theo tâm nguyện của mình.
Lịch sử và công năng của
pháp tu Nyungnay
Về lịch sử của pháp tu
Nyungnay: Pháp tu Nyungnay được truyền từ Bồ Tát Quan Âm, xuống Ngài Atisa, từ
Ngài Atisa truyền xuống Tỳ kheo ni Palmo giàu đức hạnh xả ly. Cô xuất gia và muốn giải thoát ngay trong một đời vì lợi
ích của hết thảy hữu tình. Trong suốt cuộc đời, hàng nghìn lần, hàng nghìn ngày
cô thực hành và cuối cùng đã thành tựu pháp tu Nyungnay. Đức Quan Âm thường thị
hiện và ban phúc cho cô. Lịch sử kể lại rằng, vì vốn rất nghèo nên cô giống như
một kẻ ăn mày lang thang, bẩn thỉu nhưng thực chất cô là một Tỳ kheo ni xuất
gia. Một lần, cô muốn vào một ngôi chùa ở Nepal để đỉnh lễ Đức Quan Âm nhưng
người giữ cổng chùa không cho vào, bởi trông cô quá bẩn thỉu, dơ dáy. Nghĩ
trong lòng rằng, với mình Đức Quan Âm không bao giờ xa cách nên cô ra phía sau
lưng của chùa và thực hành pháp Nyungnay trọn vẹn một ngày một đêm với tâm chí
thành tha thiết đỉnh lễ Đức Quan Âm. Sáng hôm sau, khi mở cửa chùa, chư Tăng mới
nhìn thấy tượng Đức Quan Âm, tức là bức tượng của Ngài đã quay lưng lại và hướng
mặt vào tường tức là hướng mặt về phía Tỳ kheo ni Palmo đang thực hành
Nyungnay. Cho đến tận bây giờ, ngôi chùa vẫn đang còn tồn tại ở Nepal với bức
tượng Quan Âm quay mặt vào tường, như một minh chứng sống động cho sự thực hành
Nyungnay của Tỳ kheo ni Palmo. Bởi vậy, pháp Nyungnay gắn liền với quán đỉnh của
Bản tôn Quan Âm Nghìn Tay Nghìn Mắt mà hôm nay Đại đức Trụ trì tha thiết thỉnh
cầu chúng tôi chuyển pháp Nyungnay ở đây
Đối với Đức Pháp Vương
Gyalwang Drukpa, Bậc Thầy của chúng ta thì pháp thực hành Nyungnay lại là một
pháp thực hành chính của Ngài. Tôi nhớ ngay từ hồi còn thơ ấu, tôi thường thấy
Đức Pháp Vương thực hành pháp Nyungnay. Ngài thực hành một bộ, tức là trong
vòng hai ngày. Tôi không thường ở gần Ngài nhiều nhưng chính bản thân tôi đã chứng
kiến Ngài thực hành hàng trăm lần pháp Nyungnay để rèn luyện tâm và thực hành
thiền định. Bởi vậy pháp tu Nyungnay giúp cho chúng ta thiền định, lễ Phật và
vô cùng cần thiết để giảm thiểu tất cả những nghiệp bất thiện, đồng thời thực
hành thiện pháp lợi lạc cho hết thảy hữu tình. Phương pháp thực hành Nyungne
này cho đến bây giờ tất cả Ni chúng của Ngài ở tu viện Amitabha vẫn thường thực
hành một bộ hai ngày vào các ngày 15 và ngày mùng 8 mỗi tháng.
Như vậy, pháp Nyungnay
là một trong những phương pháp thực hành vô cùng quan trọng của Kim Cương Thừa
giúp cho chúng ta tịnh hóa cả phần thân thể và vật chất. Khi nhịn đói cũng sẽ tịnh
hóa được cả ba nghiệp thân, khẩu, ý của chúng ta. Nếu trong đời có thể thực
hành tám lần, tức mười sáu ngày, với điều kiện là trong khi thực hành pháp
Nyungnay chúng ta không được bể giới dù chỉ một chút nhỏ nào, thì công đức sẽ
vô lượng, vô biên. Chẳng hạn giới Tỳ kheo, Tỳ kheo ni cũng có giới không ăn phi
thời nhưng Đức Phật dạy khi đã ốm đau, bệnh hoạn cũng có thể dùng chút sữa,
chút cháo cho đỡ bệnh. Nhưng đối với pháp Nyungnay, bởi thời gian chỉ là bốn
mươi tám giờ cho nên không thể để một tơ hào vi phạm. Nếu chúng ta lỡ phạm khi
phát nguyện thọ Nyungnay thì tội lỗi cũng rất lớn. Trong kinh Đức Quan Âm dạy
rõ rằng, nếu ai trong đời có thực hành tám lần Nyungnay tức là mười sáu ngày
thì bao nhiêu tội lỗi sinh tử trong đời sẽ đều tiêu diệt. Và Ngài hứa nguyện rằng,
đến lúc lâm chung Ngài sẽ tiếp dẫn hành giả về Tịnh độ. Bởi vậy, Đức Nhiếp
Chính Vương thường khuyên tất cả học trò và đệ tử của Ngài cố gắng thực hành
Nyungnay trong đời ít nhất là tám lần trong đời. Và đối với người mất, hành giả
có thể cúng dàng cho pháp hội Nyungnay, cho dù một chút trà, một chút thực phẩm
vào ngày đầu đều sẽ được công đức vô lượng để hồi hướng cho người đã mất.
Drukpa
Việt Nam