1.
HỎI: Thiền là gì?
ĐÁP:
Có người cho rằng, vì siêu vượt mọi tổ chức và hình thức quy định, vì
siêu vượt mọi ngôn từ, mọi khái niệm và tướng trạng nên không thể nói
được Thiền là gì. Nhưng, nếu không thể nói gì được thì đạo lí Thiền đã
không có mặt ở cõi đời.
Thiền,
cốt tuỷ nhất, là tự tri; là tâm trí thấu hiểu chính nó, thấy biết chính
nó, soi sáng chính nó để giải thoát khỏi tình trạng vô minh. Trạng thái
vô minh của tâm trí tức là trạng thái vô minh của ý chí, tức là trạng
thái vô minh của ông chủ sự sống.
Tâm
trí vô minh mang năng lượng khuôn đúc, quy định trạng thái óc não.
Trạng thái óc não bị khuôn đúc chính là trạng thái chấp thủ, chấp ngã
(khẳng định cái “tôi” huyễn ảo). Một óc não bị khuôn đúc thì không thể
có tự do và minh triết trong nhận thức, trong tư duy.
Tâm
trí vô minh, vì sống không minh triết, nên tích tụ năng lượng gây hậu
quả đau khổ phiền não cho chính cuộc sống của nó (một cấu trúc
thân-tâm-cảnh), trong vòng sinh hoá luân hồi.
Tâm
trí vô minh góp phần gây ô nhiễm cho tổng thể; góp phần gây hỗn loạn
đảo điên cho vô thức của nhân loại, của chúng sinh, của toàn thể vũ
trụ.
Tâm
trí vô minh, vì sự chấp thủ-chấp ngã ngự trị, nên lương tri bị che mờ;
vì thế không có đạo đức nhân văn đích thực, không có tâm thái hoà bình.
Tâm
trí vô minh không thể ngộ nhập Chân Lí Tối Thượng (Thượng Đế, Chân Tâm,
Viên Giác…); không thể biết đến tâm linh vĩnh hằng (tri giác phi thời
gian tâm lí); không thể giác ngộ thực tại cuộc sống; không thể có
cái-nhìn-như-thực (tuệ nhãn).
Một
tâm trí không thấu hiểu chính nó, không thấy biết chính nó, thì chắc
chắn đó là một tâm trí đầy ngã chấp si mê, vô minh tăm tối. Tâm trí đó
dù học nhiều, biết rộng, giàu tài năng (kể cả tài năng hoạt động tôn
giáo), lừng danh về trí-công-cụ, vẫn không phải là có trí tuệ đích thực
(vô sư trí); vẫn không phải là tâm trí tỉnh thức đích thực.
Thiền
là sống với những giây phút “tự tri-tỉnh thức-vô ngã” (đạt viên mãn rất
khó). Thiền là những giây phút sống với tâm vô trụ, với nhân cách
tự-do-tinh-thần. Vì thế, trong Đường Về Minh Triết (Thuvientutam.vn) tác
giả có viết: “Tự tri-tỉnh thức-vô ngã” là đạo lí của vũ trụ, là mẫu số
chung của ý nghĩa cuộc sống, là Thiền; mang năng lượng tích cực có lợi
cho toàn vũ trụ, cho sự thăng hoa trí tuệ-tâm linh chung của tất cả”.
Hành
thiền, cốt tuỷ nhất, là tự tri, là quán tâm. Học Thiền, tức học đạo lí
giác ngộ, cốt tuỷ nhất là nương ngôn từ để thấy biết trạng thái tâm trí.
Tâm trí có sự thấy biết chính nó, đó là có sự giác ngộ, có sự tỉnh
thức.
Thiền
là sự tỉnh thức của ý chí cuộc sống. Thiền là giá trị tối thượng của
nhân loại muôn đời, của vũ trụ. Có thể gọi “Thiền” bằng nhiều tên gọi
khác, nhưng nội hàm là “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”. Dù áp dụng phương cách
nào để chuyển hoá tâm thức, nhưng nếu có nội hàm “tự tri-tỉnh thức-vô
ngã” là có Thiền, là có giác ngộ. Không có sự soi sáng cái “tôi” thì
không thể có giác ngộ chân thực, không thể có Thiền chân chính; không
thể có phẩm chất khế hợp Chân-Thiện-Mĩ.
2.
HỎI: Phải đọc văn bản có giá trị giác ngộ tự tâm (tức là giác ngộ cội nguồn cuộc sống) như thế nào?
ĐÁP:
Nếu đọc mà dùng nhận thức suy luận để hiểu, đó là đọc bằng trí-công-cụ,
bằng tâm ngôn-tâm hành; tức là đọc bằng vọng tưởng, bằng kiến thức bị
quy định. Tâm ngôn-tâm hành là sự nói năng trong tâm, là sự diêu động
trong tâm; là vọng tưởng. Vọng tưởng càng nhiều thì thực tại của tâm,
mặt thật của tâm trí càng bị che mờ. Sự hiểu bằng cách đọc này chỉ có
giá trị định hướng, đánh thức khát vọng giác ngộ, chứ không có sự giác
ngộ đích thực.
Phải
vừa đọc, vừa nghiệm, vừa đối chiếu với trạng thái tâm trí đang hiện hữu
(đang là). Văn bản như tấm gương soi để thấy rõ mặt tâm trí, để ấn
chứng.
Không
quán tâm, không tự tri thì không biết đọc Thiền, không biết học Thiền.
Cốt tuỷ của việc học Thiền là trực quan, tức là thấy rõ (nghe rõ, biết
rõ) trạng thái tâm trí bằng tri giác nội tại. Giống như học giải phẫu cơ
thể, không thể học được nếu không tận mắt thấy rõ các bộ phận trong cơ
thể.
Biết đọc văn bản giác ngộ là có giác ngộ.
3.
HỎI: Vọng tưởng là gì?
ĐÁP:
Vọng tưởng là những hoạt động của tâm trí gắn chặt với trạng thái tâm
lí si mê chấp ngã (quy ngã, khẳng định cái “tôi” huyễn ảo). Hoạt động
của vọng tưởng hàm chứa hai chiều hướng đồng thời: một chiều thì hướng
về đối tượng, một chiều thì hướng về chủ thể vô minh. Chủ thể (tức là
cái “tôi” huyễn ảo) vô minh vì bản thể không có sự soi sáng, không có sự
tỉnh giác. Vì chủ thể là sự vô minh nên mọi hoạt động của tâm trí được
gọi chung là vọng tưởng.
Nói
khái quát thì vọng tưởng còn có những tên gọi khác là: vọng niệm, vọng
tâm, vọng thức, nghĩ tưởng, niệm tưởng, suy nghĩ, suy tưởng, tư tưởng,
nhớ nghĩ, tưởng nhớ, tâm ngôn, tâm hành, tâm sinh diệt, kiến chấp, chấp
thủ…Tức là mọi hoạt động của tâm trí trong trạng thái vô minh.
Vọng
tưởng hàm chứa sự phân biệt mang tính chất vị ngã (sự vị ngã có thể rất
khó nhận biết). Tâm phân biệt (nhị nguyên) thì có ngôn từ, vì thế, rất
cụ thể, vọng tưởng là những nói năng trong tâm trí. Vọng tưởng là những
nói năng trong tâm trí, nên những nói năng trong tâm trí (tâm ngôn) là
biểu hiện của cái “tôi”, của sự chấp ngã.
Biết
vọng tưởng trọn vẹn (tức biết lắng nghe sâu sát và tự nhiên những nói
năng trong tâm trí) là biết nhắm vào gốc rễ của cấu trúc vô minh, phiền
não. Thấy rõ, biết rõ điều này rất quan trọng cho Thiền, cho sự đột
chuyển (chuyển y) nội tâm, cho sự nghiệp giác ngộ.
Vọng
tưởng là huyễn tướng. “Tri huyễn tức li, li huyễn tức giác” (Kinh Viên
Giác). Thấy biết rõ vọng tưởng thì tướng vọng tưởng tự lìa, tánh Viên
Giác hiện tiền (cũng chính là vô niệm hiện tiền, tánh Không hiện tiền,
chân tâm hiện tiền, vô ngã hiện tiền).
Những
lúc có sự tỉnh thức thật sự (vô niệm hiện tiền, tịch quang hiện tiền),
thì khởi niệm khởi tưởng tuỳ duyên được gọi là chánh trí, chơn thức…
Với
trạng thái vô minh chấp ngã, với trạng thái vọng tưởng, sự tôn vinh
trí-công-cụ làm cho nhiều vấn đề càng ngày càng nan giải là: siêu thiên
tai vì biến đổi khí hậu, lan tràn bạo lực và chiến tranh, bành trướng vũ
khí hạt nhân và vũ khí sinh học, môi trường sống bị ô nhiễm nghiêm
trọng, thực phẩm chứa đầy độc hại, tai nạn giao thông tràn lan, gia tăng
nhiều bệnh tật hiểm nghèo, dân đen bị trí-chó-sói bóc lột đa dạng, đói
khát, tranh giành quyền lực quyền lợi khốc liệt, bịp bợm xảo quyệt, sa
đoạ lương tri, sa đoạ tinh thần, tâm bệnh…
Rất cần có Ngày Quốc tế “tự tri-tỉnh thức-vô ngã”để định hướng cho văn hoá-giáo dục, để nhắc nhở tâm ý con người.
4.
HỎI: Thế nào là giác ngộ?
ĐÁP:
Ý chí sự sống là động lực chủ hướng của sự sống, là ông chủ cuộc sống,
là cái tâm của dòng sinh mệnh. Khi nói cuộc sống vô minh, tâm trí vô
minh tức là muốn nói rằng, ý chí sự sống đang trong trạng thái không tự
thấy, không tự biết… Tâm không tự thấy không tự biết tâm, vì đang dồn
năng lực cho sự hướng ngoại (mê trần cảnh), kể cả hướng ngoại ở nội tâm
(mê ý trần).
Dồn
năng lực cho ngoại cảnh (lục trần) nên tâm si mê theo ngoại cảnh, luôn
nhớ nghĩ đến ngoại cảnh (vọng niệm). Trong trạng thái này, tâm không tự
thấy không tự biết, không “nhớ” chính mình (thất niệm chân như). Tâm
không tự thấy không tự biết nên quên chân ngã (chân tâm); quên chân ngã
nên âm thầm khẳng định huyễn ngã (cái “tôi”) theo sự đeo bám ngoại cảnh.
Ngoại cảnh thì vô thường vô ngã, nên trạng thái tâm chấp ngã si mê luôn
bất an phiền não.
Ở
con người, tâm ý hướng ngoại (vọng tâm, vọng tưởng) có biểu hiện là
ngôn từ ở nội tâm (tâm ngôn), tức là sự nói năng trong tâm trí. Nhận ra
sự kiện này là vô cùng quan trọng cho sự nghiệp giác ngộ.
Muốn
giác ngộ, phải chuyển ngược động lực chủ hướng để thấy nghe, để nhận
biết tự tâm tự tánh. Với khát vọng chuyển ngược động lực chủ hướng thì
vô sư trí hiện tiền. Khác với hữu sư trí - một diễn trình nhận thức (tâm
ngôn-tâm hành), vô sư trí là năng lực (là tấm gương bên trong) đang
thấy biết vọng tưởng (vọng niệm). Đó là năng lực nghe rõ mọi nói năng
trong tâm trí (quán thế âm) một cách tự nhiên, không dụng công (quán tự
tại).
Vọng
niệm có sự nghe lại, tức có sự tự thấy tự biết (tự tri), tức tỉnh giác
thì tâm có sự đột chuyển (chuyển y), vọng niệm dừng lại (im lặng).
Vọng
niệm dừng lại (im lặng) thì đồng thời, vô niệm hiện tiền với ánh sáng
thanh tịnh (tịch quang). Vô niệm là vô tâm. Vô tâm là tâm vô ngôn. Tâm
vô ngôn là Tâm Không. Tâm Không là Tánh Không. Tánh Không là vô ngã. Vô
ngã là chân ngã. Chân ngã là Tánh Viên Giác. Tánh Viên Giác là “bổn lai
diện mục”…
Thấy-biết-vô-niệm
hiện tiền tức là Viên Giác hiện tiền. Đó là giác ngộ (sơ ngộ) đích
thực. Vô niệm hiện tiền là mở mắt sự sống (tuệ nhãn), là ấn chứng cho sự
nghiệp “trưởng dưỡng thánh thai” - tức sinh mệnh tuệ giác.
Sinh
mệnh tuệ giác (huệ mạng) không chỉ là sinh mệnh cá nhân, vì tâm linh
vừa mang tính chất cá thể (tâm trí cá nhân), vừa mang tính chất tổng thể
(tinh thần vũ trụ). Sự nghiệp Thiền (tự tri, quán tâm) không chỉ có ý
nghĩa cá nhân, mà còn có ý nghĩa đại thừa vô lượng.
5.
HỎI: Bát-Nhã Tâm Kinh là một bản kinh rất quan trọng, đâu là chìa khoá của kinh?
ĐÁP: Khi học Bát-Nhã Tâm Kinh rất cần lưu tâm đến cụm từ “chiếu kiến”. “Chiếu kiến” là “soi thấy”.
Câu
kinh có cụm từ này là: “Quán Tự Tại Bồ-tát hành thâm Bát-nhã ba-la-
mật-đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách”. Thầy
Tuệ Sỹ dịch là: “Bồ-tát Quán Tự Tại trong khi thực hành Bát-nhã
ba-la-mật-đa thâm sâu, soi thấy năm uẩn đều Không, vượt qua tất cả mọi
khổ ách”.
Dùng
trí óc phân tích rồi kết luận rằng năm uẩn do duyên sinh – không có tự
tính, đó là suy luận trừu tượng. Phân tích và suy luận chỉ giúp hiểu đối
tượng bằng vốn liếng tri thức trong tâm trí bị quy định, để góp phần
tăng khát vọng giác ngộ, chứ không thể thấy-biết-như-thực thực tại.
“Soi
thấy” (chiếu kiến) là cụm từ chỉ sự kiện hiện tiền cụ thể, chứ không
phải chỉ sự suy luận trừu tượng. Thấy-biết-như-thực là chiếu kiến.
Chiếu
kiến (soi thấy) là giáp mặt đối tượng; một sự giáp mặt không còn ngăn
cách nào, không còn chủ thể phân cách với đối tượng. “Quán tâm nơi tâm”
trong kinh điển Phật giáo nguyên thuỷ cũng hàm ý ấy.
Nhưng làm sao để trạng thái chiếu kiến hiện tiền ở tâm?
Trạng
thái chiếu kiến là trạng thái vô sư trí. Trí này hiện tiền do có ý định
chủ hướng, do có khát vọng giác ngộ đích thực – giác ngộ vì tự lợi-lợi
tha tối thượng.
Ý
định chủ hướng nhắm vào đâu? Nhắm vào sự lắng nghe vọng tưởng; tức là
lắng nghe mọi nói năng trong tâm trí; tức là lắng nghe ông chủ vô minh
của ngũ uẩn; tức là quán thế âm. Phải lắng nghe một cách nhẹ nhàng và tự
nhiên, không dụng công gắng sức; tức là quán tự tại. (Bồ-tát Quán Tự
Tại chính là Bồ-tát Quán Thế Âm).
Với
tri giác nội tại, khi biết nghe-như-thực thì cũng chính là
thấy-như-thực, biết-như-thực. Đó là trạng thái chiếu kiến (soi thấy).
Khi
biết chiếu kiến ngũ uẩn, khi thật sự soi thấy năm uẩn thì vọng tưởng
dừng lại, tức là tâm im lặng. Nói cho dễ nhận, khi thật sự biết nghe lại
mọi nói năng trong tâm trí thì tâm trí có sự đột chuyển (chuyển y), vô
niệm hiện tiền (tức là Tánh Không hiện tiền).
Vô
niệm hiện tiền chính là mở con mắt Tâm – con mắt của sự sống bất sinh
bất diệt. Mắt mở sáng thì tuỳ duyên khởi tác dụng. Vô niệm hiện tiền là
tuệ nhãn. (Thỉnh thoảng có được vài phút vô niệm cũng có công đức và
phước đức rất lớn, nghiệp chướng vơi bớt).
Vô niệm là Tâm Không; là tâm vô ngôn phi thời gian; Tâm Không là Tánh Không. Tánh Không là Tánh Viên Giác.
Như
thế, thật sự soi thấy ngũ uẩn, thật sự giáp mặt ngũ uẩn thì Tánh Không
hiện tiền, Viên Giác hiện tiền. (Ta hiểu tại sao các minh sư khi Việt
dịch chữ “không” thường viết hoa là “Không”).
“Chiếu
kiến ngũ uẩn giai không” chính là “hành thâm Bát-nhã ba-la-mật-đa”.
Vọng tưởng là trạng thái tâm trí si mê theo kiến chấp nhị nguyên đầy
phiền não; Tâm Không hiện tiền thì cực lạc hiện tiền…
Học Bát-Nhã Tâm Kinh rất cần lưu tâm cụm từ “chiếu kiến”. Đó là chìa khoá mở cửa giác ngộ đích thực.
Tuệ Thiền (Lê Bá Bôn)