Trong đời 
sống nhân loại nói riêng, tất cả sinh vật có sự sống nói chung, hơi thở 
là nguồn mạch của sự sống. Nhiệm vụ của hơi thở là cung cấp nguồn năng 
lực cho sự sống với lượng khí oxygen dược chuyển vào trong phổi,tim và 
sẽ được bài tiết những chất carbon dioxide theo ra ngoài với hơi thở ra.
 
	Không những 
thế, hơi thở còn ảnh hưởng từng giây từng phút đến các  cảm giác, giấc 
ngủ, bộ nhớ, năng lực tập trung và toàn bộ sự sống của chúng ta cho đến 
khi nhắm mắt lìa đời.
	Từ ngàn xưa,
 hơi thở trở thành một đề mục tối cần thiết cho những nhà ẩn sĩ, đạo sĩ,
 tu sĩ, các vị nương đề mục nầy để an trú vào thiền định, hưởng được 
những hạnh phúc an lạc của các cảnh giới mà hầu như ngày nay rất hiếm 
được thấy có ai làm được và thậm chí trở thành không tưởng hay giả 
tưởng.
	Hơn thế nữa,
 có vị do nhờ hơi thở nầy mà đã trở thành vĩ nhân, thánh nhân và điều 
hiển nhiên nhất là chính Đức Phật Thích Ca của chúng ta cũng do từ hơi 
thở nầy mà ngài đã trở thành Phật Chánh Đẳng Chánh Giác có một không hai
 trên thế gian nầy.
	Do vậy, hơi 
thở chính là tài sản vô giá mà tất cả chúng ta ai ai cũng đều có, nhưng 
có thì có, mà mấy ai biết tận dụng nó, hiểu được nó để từ đó đem lại 
nguồn an lạc cho chính mình và cho toàn thể nhân loại.
	Không hiểu 
biết về hơi thở là một điều thiêú sót và thảm hại nhất  cho nên chúng 
tôi mạo muội đưa ra tập sách nhỏ nầy hầu có thể đóng góp vào kho tàng 
văn học cũng như giúp cho những ai có sự mong cầu thành tựu được những 
sự an lạc trong cuộc sống và giải thoát cuộc sống ra khỏi ách thống trị 
và nô lệ  cho ma vương.
	Hơi thở có những bí ẩn gì
	Đối với tất 
cả chúng ta (ngoại trừ các vị có nghiên cứu, thiền sư..) hằng ngày chúng
 ta thở ra thở vào không biết là mấy chục ngàn lần mà chúng ta nào có 
hay biết nó, bên trong nó là gì,? thỉnh thoảng chúng ta để ỷ đến chúng 
tí xíu rồi đưa tâm đi phiêu diêu đây đó, toan tính mưu đồ kế hoạch, suy 
tư tìm kiếm những cảm giác hạnh phúc, đào sâu vào các công trình hầu đem
 lại sự giàu sang phú quý... ; cho đến khi chúng ta  gặp những hoạn nạn 
đau khổ không biết nương tựa vào đâu, từ đó nảy sanh những tri kiến lầm 
lạc bám víu vào các thần linh để mong cầu sự an lạc hạnh phúc...
	Hơi
 thở, đây chính là nơi nương tựa tuyệt vời nhất và nó luôn luôn có mặt 
sẵn sàng chờ đợi chúng ta quan tâm đến nó và chính nó sẽ giúp các bạn 
vượt qua mọi khổ sầu ngay trong hiện tại. Không 
tin các bạn hãy thử những lúc gặp chuyện buồn (thất tình, thua lỗ...) 
bạn chỉ cần ngồi yên xuống quay về với hơi thở, sống với nó, trú trên 
nó, khi nó thở vào bạn biết rõ nó vào, khi thở ra bạn biết rõ nó ra...; 
cứ như vậy trong thời gian ngắn mọi ưu phiền lo toan đều tiêu tan, một 
liều thuốc an thần tuyệt vời không tốn một xu nào,  ngoài ra nó còn giúp
 cho các bạn vượt qua nhiều chứng bệnh trầm kha về thân lẫn tâm nếu các 
bạn kiên trì luyện tập đều đặn (tâm bình thế giới bình); đó là bí ẩn thứ nhất mà tôi giới thiệu đến qúy vị độc giả.
	Hơi
 thở bản thể của nó chính là nguyên tố gió, những vật thể nào mang tính 
căng phồng, lay động, di chuyển lên xuống..chính là  gió. 
	Riêng về đặc tướng của gíó có hai loại cần được biết là :                
	            Tĩnh phong và động phong.
	Tĩnh
 phong là chất gió có khả năng duy trì các vật chất khác đồng sanh với 
nó được quân bình, thăng bằng không té đổ. Cho nên khi chúng ta ngồi hay
 đứng được vững vàng cũng do nhờ tịnh phong nầy.
	Động
 phong thì có phận sự làm cho các vật thể di động, lay chuyển, không có 
gió thì mọi vật không thể chuyển động và từ đó không thể tồn taị được. Đi tới đi lui, co tay duổi tay, đứng lên ngồi xuống hay bất kỳ mọi cử động nào đều do động phong.
	 
	Đó là những bí ẩn thứ hai chúng tôi giới thiệu đến quý vị. 
	Bây giờ còn điều gì xảy ra với bí ẩn thứ ba? 
	Hơi thở  phát khởi được biết là do từ tâm sanh, một thân xác không có tâm đồng nghĩa với
 một xác chết (ngoại trừ những vị nhập thiền diệt và những vị trời vô 
tưởng) và một tử thi thì chắc chắn là không có hơi thở, một người vừa 
tắt hơi thở đồng lúc với  tử tâm thì là người chết. Đó là bí ẩn thứ ba cần được biết. 
	Hơi
 thở không những chỉ có bấy nhiêu mà nó còn rất nhiều điều mà chúng ta 
cần được biết là ngay chính trong hơi thở không những chỉ có nguyên tố gió mà nó còn có bảy sắc thể đồng sanh chung là : nước, lửa, đất, sắc, hương (khí), vị, và dưỡng tố; 
	Như vậy toàn bộ cái gọi là hơi thở sanh lên bao gồm 8 thể loại sắc tố  đồng sanh chung với nhau . 
	Bất
 kỳ vật thể nào sanh lên dù to như đảnh núi hay nhỏ như vi trần đều phải
 có ít nhất là 8 sắc nầy và chúng được goị là 8 sắc bất phân ly. Một
 vật thể không có đất thì không có chỗ nương tựa nâng đở, không có nước 
thì không thể kết dính lại nhau, không có lửa  thì không thể tồn tại, 
không có gió thì không thể di chuyển được; Đó
 là 4 đại không thể không có mặt để trợ lẫn nhau, ngoài ra bất kỳ vật 
thể nào cũng đều có màu sắc riêng của nó, mùi hương thơm, hôi, tanh, 
thối.., vị cay, đắng, ngọt, bùi.., và chất dưỡng tố để duy trì nuôi 
dưỡng sự tồn tại của chính nó ; hơi thở không ngoại lệ. Đó là bí ẩn thứ 
tư cần được biết đến.
	Rồi khi ta thở vào thì điều gì sẽ xảy ra?
	Khi chúng ta
 thở vào, như được biết hơi thở có 8 sắc bất phân ly  (đất - nước  - lửa
 - gió - sắc - hương - vị  và  dưỡng tố ) nhưng rõ rệt nhất của hơi thở 
chính là gió; chưa hết, 2 cái lỗ mũi thông tức nói về khoảng không (sắc 
hư không), cộng với bản thể đất, lửa, gió  xúc chạm vào  hệ thần kinh 
thân trải bao quanh trên đầu mũi tạo nên sự xúc (thân xúc, nguyên tố 
nước vì thuộc sắc tế nên không thể xúc chạm được) rồi từ đó sự cảm xúc 
đó thông truyền vào trong dòng tâm thức làm cho dòng tâm bị rung động 
rồi từ đó tâm thân thức phát sanh để biết được sự xúc của hơi thở vào; 
Cùng thế ấy, hơi thở ra cũng được hiểu như vâỵ ,đó là bí ẩn thứ năm rất 
quan trọng cần nắm thật rõ vì sẽ đem lại sự lơị ích khi chúng ta đi vào 
pháp hành thiền về hơi thở.
	Vậy khi hành thiền về hơi thở có những bí ẩn gì?
	Nhiều lắm, nhiều không thể tưởng, vớí tài hèn sức mọn tôi cố gắng trình bày cho quý vị những gì tôi biết, thế thôi.
	Trước tiên, 
muốn đi vào công cuộc hành thiền về đề mục hơi thở nâỳ chúng ta cần phải
 có một số chuẩn bị thích đáng vì nếu không thì chúng ta sẽ chẳng gặt 
hái được gì và có thể đưa đến tri kiến lầm lạc hậu quả không lường. 
	Thứ nhất, điều cần phải làm là gìn giữ những giới hạnh tất yếu cần có như ngũ giới, bát quan trai giới…( http://budsas.110mb.com
 ), nếu có thân cận thì nên thân cận các bậc thiện trí nên tránh xa 
những nơi ồn ào náo nhiệt, chế độ ăn uống cần tri túc, giảm thiểu các 
chất kích thích tố, thân thể  gìn giữ sạch sẽ và nhất là lỗ mũi cho sạch
 và thông.
	Tiếp đến là 
học cách ngồi sao cho thích hợp với cơ thể, tư thế ngồi tốt nhất là nên 
ngồi trên một cái gối để cho cột sống được thẳng, hai chân xếp tréo 
chồng lên nhau theo tư thế kiết già nếu không chịu được nổi cách nầy thì
 có thể ngồi bán già chân trên chân dưới xếp laị, còn không được nữa thì
 nên để hai chân xếp lại đặt nằm trên mặt đất theo lối người Miến Điện, 
ngoài ra những trường hợp khác vẫn có thể ngồi trên  ghế sao cho thích 
nghi với cơ thể và quan trọng là nên ngồi trong tình trạng luôn thoải 
mái có như vậy công cuộc hành thiền mới đem lại nhiều kết quả khả quan; 
riêng về hai tay thì tuỳ, bạn có thể để hai tay chồng lên nhau hoặc để 
úp trên hai đùi thật tự nhiên nhẹ nhàng. 
	Bây giờ mời 
các bạn đi vào thế giới huyền diệu của thiền. Sau khi mọi việc đã chuẩn 
bị đâu đó, việc trước tiên là tìm nơi vắng vẻ, ngồi xuống với tư thế 
kiết già hay bán già. Đặt tâm trên ngay chót mũi, chuẩn bị quan sát hơi 
thở vào, ra. 
	Khi hơi thở 
sanh lên (đều có nhân duyên tác tạo chẳng hạn như do sự cần thiết cho sự
 sống còn báo lên dòng tâm từ đó tâm tạo tác sự thở vào, ra) đi vào ngay
 cửa mũi, xúc chạm vào một trong những  khu vực thần kinh thân xung 
quanh mũi, bên trên, bên trong...hay bất kỳ nơi nào trên đầu mũi, Chính 
do sự xúc chạm đó báo vào dòng tâm thức (luồng hộ kiếp tâm) làm cho dòng
 tâm bị rúng động và cắt đứt dòng hộ kiếp và rồi một loại tâm khác sanh 
lên hướng về nơi hơi thở xúc đụng vào, liền sau đó tâm thân thức sanh 
lên biết được có xúc của hơi thở đi vào và liên tục hàng loạt lộ trình 
tâm do duyên từ đó sanh khởi, cho nên điểm chính yếu cần phải ghi nhận 
chính là sự xúc tác nơi nào rõ rệt nhất nơi đầu mũi 
(trên,dưới,trong.....); thở vào tâm  ghi nhận rõ ràng thở vào nương qua 
điểm xúc tác nơi đầu mũi ; cùng thế ấy, thở ra tâm ghi nhận rõ ràng thở 
ra. 
	Như thế nào là thở vào tâm ghi nhận rõ ràng thở vào, thở ra tâm ghi nhận rõ ràng thở ra?
	Khi thở vào chúng ta tinh cần nỗ lực đặt tâm niệm nơi sự xúc của hơi thở tại đầu mũi một cách rõ ràng với trí tuệ
 sáng suốt không lờ mờ và liên tục liên tục, có nghĩa là tâm ghi nhận 
liên tục trong suốt quá trình hơi thở sanh lên cho đến khi hơi thở vào 
chấm dứt, khi thở ra cùng thế ấy tâm ghi nhận sự xúc của hơi thở nơi đầu
 mũi một cách rõ ràng sáng suốt liên tục cho đến khi hơi thở ra chấm 
dứt. Cứ như vậy chúng ta tập liên tục trong khoảng thời gian một giờ có 
thể ít hơn tùy theo khả năng và mỗi ngày tập đều đặn ít nhất hai thời 
sáng sớm và tối.
	Những trường hợp khả dĩ sẽ xảy ra ngay trong khi thở vào hay thở ra có thể là :
	Trường hợp 
1: chúng ta sẽ không ghi nhận được  sự xúc nơi đầu mũi, trong trường hợp
 nầy trước tiên chúng ta cũng nên ghi nhận là không ghi nhận được xúc, 
đồng nghĩa là chúng ta ghi nhận được sự không ghi nhận xúc nơi đầu mũi, 
như vậy không có nghĩa là không có xúc mà vì sự ghi nhận của mình còn 
yếu không nhạy bén nên không ghi nhận được thôi, cho nên phải cố gắng 
tinh tấn hơn để thấy cho được rõ sự xúc đó càng nhiều càng tốt. Có thể 
rằng là dòng tâm lúc đó biết được hơi thở vào, ra như một luồng hơi chạy
 vào tuốt trong bụng rồi chạy ra tuốt ngoài mũi do tưởng tri hoặc nữa là
 tâm biết được hơi thở vào, ra là do sự chuyển động phồng xẹp của bụng, 
khi hơi thở vào do nhân duyên tác động làm cho gió trong bụng bị  ép đẩy
 cái bụng phình từ từ to lên căn rộng ra rồi khi to đến mức không thể 
thì ngưng rồi hơi thở ra và bụng xẹp lần xuống..; tại đây chúng ta có 
thể hiểu rằng là chính do bản thể gió trong bụng (3) dồn ép xúc tác vào 
hệ thần kinh thân nơi bụng rồi tác động đến dòng tâm làm cho chúng ta 
biết được bụng phồng lên, do vậy nếu có quán sát thì một là quán sát bản
 thể gió đang sanh, hai là quán sát sự xúc  nơi bụng do duyên từ gió chứ
 không phải quán sát cái tướng bụng phồng lên hay xẹp xuống.  Tất cả 
những vấn đề phát sanh về sau đều do từ xúc, chẳng hạn như mắt tiếp xúc 
cảnh sắc, từ đó hàng triệu hàng tỷ chuyện phát sanh; Cũng vậy, tai, mũi,
 lưỡi, thân, ý...! một khi  một trong các căn ‘ nhãn, nhĩ... ‘ tiếp xúc 
với các cảnh ‘ sắc, thinh... ‘ thì mọi vấn đề phát sanh rất phức tạp. 
Nếu chúng ta không liễu tri được điều nầy thì công việc hành thiền của 
chúng ta sẽ khó tiến hóa được. 
	Thí dụ: 
trong khi chúng ta đang ngồi thiền  quán niệm hơi thở, bổng nhiên có 
tiếng chim hót chẳng hạn, Lúc đó tâm của chúng ta bị chi phối và hướng 
về tiếng hót đó. Trong sự việc nầy nếu nói theo thông thường thì khi 
nghe tiếng chim hót, tâm liền biết đó là tiếng chim hót, đúng thực tế, 
nhưng khi phân tích sâu vào thì khi nghe tiếng chim hót mà chúng ta biết
 đó là tiếng chim hót thì lúc đó tâm chúng ta đã đi quá xa và tâm đã rơi
 vào trạng thái chế định pháp (sammuttisacca), cho nên nghe như vậy 
không phải là cái nghe của thiền quán. Một khi đã bước vào cửa thiền nầy
 thì chúng ta phải bằng mọi cách sao cho thấy được thực tính của các 
pháp (paramatthasacca) chứ không phải chế định pháp. Nhưng khổ nỗi cái 
tâm của chúng ta nó thuộc về hàng siêu tốc cho nên khi sự việc xảy đến 
chúng ta khó mà nắm bắt được ở giai đoạn pháp thực tính  còn đang diễn 
tiến mà chúng ta chỉ thấy được cái tâm khi nó đã hình thành ở trạng thái
 suy diễn thuộc chế định pháp. Nhưng có một vấn đề còn tệ hại hơn là có 
một số quan niệm cho rằng khi nghe chỉ cần ghi nhận cái âm thanh và niệm
 nghe, nghe...như vậy là đã an trú trong thực tính pháp nhưng trên thực 
tế tâm đã biết rõ đó là âm thanh thuộc loại nào rồi, nhưng vì thiễn trí 
không hiểu được tiến trình hoạt động của tâm nên cố chấp hoặc lầm tưởng 
mình đã an trú trong chân đế pháp. Cho nên sự việc không đơn giản như 
vậy mà cần phải tu tập niệm rất nhiều cho đến khi sự ghi nhận thật sự 
nắm bắt chân đế phải một cách rõ ràng không tưởng tượng. Một âm thanh 
sanh lên (như tiếng chim hót ...) rồi sau đó sóng âm nầy đi vào khu vực 
thuộc lỗ tai xúc chạm liên tục vào hệ thần kinh nhĩ làm rung động rồi 
chuyền tính hiệu vào dòng tâm. Từ đây dòng tâm hộ kiếp bị dứt dòng, sau 
đó một tâm hướng về khu vực nơi tai chổ mà âm thanh đi vào rồi tiếp đến 
nhĩ thức sanh khởi làm phận sự biết sắc cảnh thinh, từ đó tiếp nhận, 
quan sát, xác định tâm và hàng triệu lộ tâm diễn tiến (một cái khải móng
 tay, hàng triệu triệu lộ tâm sanh diệt) duyên từ đó mới biết được đó là
 tiếng chim hót, tiếng hát hay....cho nên sự ghi nhận của chúng ta (phàm
 phu tục tử) hay lắm là biết được những gì mót lại qua tưởng tri. Vì 
thế  phải nổ lực huấn tập tâm niệm ngay tại chổ nhĩ xúc cho thuần thục 
nhạy bén và lần lần tự nhiên sẽ thu ngắn sự diễn tiến của dòng tâm, có 
như vậy chúng ta mới hy vọng nắm bắt được thực tính pháp. Cùng thế ấy, 
mắt thấy, mũi ngữi...cũng vậy .
	Trường hợp 
2: Trong khi đang quan sát thở vào hay thở ra, bỗng nhiên tâm suy nghĩ 
qua chuyện khác, chẳng hạn như nhớ đến ai đó, suy tư đến việc gì đó…. 
như vậy là chúng ta đã bị rơi mất đề mục chính, công việc đầu tiên là 
ghi nhận ngay sự suy nghĩ đó cho đến khi nó biến mất rồi quay trở về với
 hơi thở ra, vào. 
	Trường hợp 
3: trong khi quan sát hơi thở như vậy đột nhiên tham dục sanh khởi do 
nhân duyên nhớ lại đối tượng nào đó...làm cho dục tham chưa sanh được 
sanh khởi, đã sanh càng tăng trưởng. Các bạn đừng sợ, hãy nhìn thẳng vào
 nó và hãy tác ý xem nó như một đề tài để quan sát, để nghiên cứu. Có 
như vậy chúng ta sẽ có kinh nghiệm và biết rõ thật tướng của nó một cách
 rõ ràng hơn và sau khi các bạn nhìn ngắm nó một cách tỉ mỉ thì tự nó 
mắc cở và biến mất không còn dám hiện diện nữa; Cùng thế ấy, khi sân hận
 sanh do nhân duyên nào đó.....bạn cũng chỉ cần ngắm nhìn nó một cách an
 nhiên tự tại, tự nhiên chúng biến mất. Cứ như vậy dù trong bất kỳ trạng
 thái nào sanh khởi trong tâm mà ngoài đề mục hơi thở, chúng ta chỉ cần 
nhìn ngắm nó một cách  thoải  mái nhẹ nhàng và nên nhớ rằng khi chúng 
biến mất thì chỉ nên biết và ghi nhận chúng biến mất, đừng nên mừng ‘ 
mất rồi, ta đã diệt được…!’ thế là hỏng việc vì bạn đã lồng cái Ta vào 
trong sự việc nầy rồi; các sự việc nó đến thì tự nhiên nó sẽ đi, có sanh
 ắt có diệt, không có gì chúng ta phải mừng như đã chính mình làm được 
một việc tiêu diệt được nó và cũng đừng vội mừng là mình đã chứng ngộ 
được sự sanh diệt của các pháp. Cái mà mình thấy đây chỉ là bước đầu sơ 
cơ mà thôi, bởi cái tâm sanh diệt nhanh không thể đo lường được cho nên 
với trí tuệ phàm phu của mình ghi nhận được chẳng qua chỉ là sự tưởng 
lại trạng thái đó mà thôi,nhưng mừng một chút cũng tốt cho sự hoan hỉ tu
 tập vì đó cũng là thu hoạch bước đầu của công việc hành thiền có điều 
là đừng tưởng đó là thật mà vội đi khoe khoang ẩu là mình đã đạt được 
tuệ sanh diệt, thế là hỏng bét. Các pháp đều có sự tuần tự phát triển, 
cho nên không thể đột nhiên chứng ngộ thình lình được .
	Trường hợp 
4: trong trường hợp bị rơi vào trạng thái dã dượi buồn ngủ (hôn trầm - 
thụy miên), tâm muốn rơi vào tình trạng hộ kiếp cho nên cố gắng tỉnh 
thức ghi nhận đề mục chính cho đến khi tình trạng nầy không còn tồn tại 
nữa, nếu cố gắng hết mức mà chúng vẫn không hết thì các bạn nên tưởng 
đến ánh sáng trong tâm để dòng tâm hoạt động trở lại thì sự buồn ngủ uể 
oải sẽ mất đi,nhưng nếu như vậy mà không hết nữa thì bạn hãy suy xét tìm
 kiếm nguyên nhân nào đưa đến tình trạng nâỳ ? do ăn quá độ, do cơ thể 
mệt mỏi quá, do thời tiết hay những nguyên nhân nào đó trong quá khứ 
...và rồi loại trừ những nguyên nhân đó.  Nếu đến như vậy mà không giảm 
thì mời bạn từ từ đứng dậy trong sự. tỉnh thức luôn ghi nhận rõ từng cử 
chỉ một(cẩn thận trong giai đoạn nầy nếu không khéo thì sẽ rơi vào bất 
thiện pháp), rồi đi từ từ ra ngoài nơi thoáng khí rồi khoan thai đi kinh
 hành trên một đoạn đường ngắn (cần học cách đi kinh hành cho đúng cách,
 đặt niệm cho đúng chổ ); như vậy chắc có lẽ cơn buồn ngủ sẽ tan biến 
trong chốc lát, còn cả đến như vậy mà không xong thì mơì bạn trở vào 
phòng lên giường ngủ một cách thoải mái trong an bình chánh niệm cho 
được việc. 
	Trong những 
trường hợp tâm sanh khởi trong khi thở vào, ra chẳng hạn như: tham, sân,
 hôn thụy, nghi, hối, ganh tỵ, bòn rít, ác tâm ..và ngay cả thiện tâm 
....thường thì chúng ta  ghi nhận các trạng thái tâm đó ngay khi chúng 
ta ý thức được nó hiện hữu, nhưng nếu có thể có nghĩa là đủ khả năng 
nhạy bén của  trí quán thì chúng ta nên  khéo tác ý hướng tâm  soi rọi 
cái mà làm cho các loại tâm đó sanh khởi (thuộc cảnh pháp) hoặc là dùng 
tuệ quán soi thấu ngược dòng tâm tìm ra nguyên nhân tác thành chúng. Tất
 cả các pháp đều có nhân có duyên, không thể tự sanh được. Tâm sanh cũng
 phải có đối cảnh mới phát khởi được, chẳng hạn tâm tham dục sanh thì 
phải có đối cảnh hoặc có nhân duyên (quá khứ, hiện tại) tác động nó mới 
sanh được. Cùng thế ấy, tất cả các loại tâm khác cũng đều phải tương tự.
 
	Bây giờ lấy 
thân làm thí dụ : đang ngồi bổng dưng muốn đứng dậy, Câu hỏi được đặt ra
 là tại sao muốn đứng? Suy xét truy tìm nguyên nhân đó là gì? chán nản, 
mệt mõi, ...bất kỳ lý do nào hãy suy xét cẩn thận trước khi đứng vì nếu 
đứng liền thì thất niệm còn không suy xét thì có thể thảm hại hơn tức là
 thực hiện hành động đó có thể do tâm bất thiện sai khiến. Cho nên thực 
hiện sự khéo tác ý truy tìm nguyên nhân là một hành vi tốt đẹp có lợi 
cho nhiều mặt và có khả năng thu ngắn được lộ trình tâm để từ đó có thể 
nắm bắt được thực tính pháp, thấu rõ được chân tướng sự vật .
	Trường hợp 
5: đau do ngồi lâu tâm động không thể an trú trên hơi thở được, Trường 
hợp nầy đa phần ai cũng phải trải qua và rất mệt mỏi về việc nầy thậm 
chí sanh tâm chán nản không muốn hành nữa hoặc sanh tâm sợ hãi bị ảnh 
hưởng đến cặp chân yêu quý của mình… Lúc nầy việc cần thiết phải làm là 
trực chỉ đưa tâm hướng thẳng đến ngay chỗ đang bị đau quán niệm cái đau,
 không phải niệm đau đau.., nêú không hết đau thậm chí còn đau hơn, đau 
dữ dội hơn, tại lúc nầy, trí tuệ rất dễ phát sanh nêú bạn đủ nghị lực, 
đủ hiểu biết về sự đau. Đối với cơn đau, bản thể nó là một trong những 
cảm thọ cần phải liễu tri, do vậy chúng ta trước tiên cần phải quán xét 
một cách bình tĩnh rằng là do nhân gì duyên gì cơn đau phát sanh? 
	Do vì ngồi 
lâu với tư thế  tréo chân nên tứ đại bị xáo trộn, dòng lưu chuyễn của 
máu bị ảnh hưởng làm phát sanh sự đau và rõ rệt nhất là chính bản thể 
gió bị dồn ép tại khu vực tắt nghẽn làm phát sanh sự đau, Đây là nguyên 
nhân chính yếu mà chúng ta cần phải đặt hết tâm lực vào điểm nầy để quan
 sát hầu thấy rõ thật tướng của bản thể gió đang hoành hành chứ không 
phải niệm ‘đau,đau..’, và nếu với ai có trí tuệ nhạy bén thì ngay tại 
đây họ có thể nhận chân ra thực tướng của  gió nói riêng tứ đại nóí 
chung, và từ đây có thể là nhân là duyên đưa đến tuệ quán sanh khởi và 
đạo quả sẽ hiển bày.
	Lại nữa, một câu hỏi cần được đặt ra là ‘ai đau, cái gì đau?’
	Như sự trình
 bày phần trên, ở đây bản thể gió dồn ép xúc tác vào hệ thần kinh thân 
rồi đưa tín hiệu lên dòng tâm thức báo cho tâm biết, từ đây tâm thân 
thức thọ khổ sanh rôì hàng triệu lộ tâm  sau sanh khởi bị cơn đau đau 
hành hạ do duyên từ đó. 
	Như vậy sự 
đau chính thức là tâm đau, bây giờ chúng ta hãy áp dụng phương cách lấy 
tâm quán tâm, có nghĩa là dùng tuệ quán để quán sát cái tâm đau, như một
 đề mục trực tiếp chúng ta có thể mục kích được trạng thái của tâm một 
cách rõ rệt và nếu ai có được tuệ quán sâu sắc thì có thể soi thấu được 
bản thể pháp, thể nhập thực tính pháp và thành tựu cưú cánh ngay trong 
hiện taị. 
	Hay nói một 
cách khác, cái đau chính là cảm thọ đau (khổ), một trong năm thọ 
(khổ,lạc,hỹ, ưu, xã); Do vậy ở đây nói cho chính xác hơn là chúng ta 
quán sát cảm thọ đau từ thân xúc duyên chính trực tiếp làm cảm thọ khổ 
phát khởi nơi thân thức từ đây làm cho cảm thọ ưu phát khởi nơi dòng tốc
 lực tâm (javana), có nghiã là ở đây chúng ta dùng niệm để ghi nhận và 
dùng tuệ quán soi chiếu cảm thọ ưu đang phát sanh nếu được bằng không 
thì chúng ta có thể quán cái tâm đang mang cảm thọ ưu đó chính là tâm 
sân. Thọ là một trong những loại tâm sở luôn có mặt trong tất cả loại 
tâm cần đựợc biết rõ như vậy.  Do vậy, tâm sở thọ có mặt nơi nào thì tâm
 có mặt nơi đó, tâm có mặt nơi nào thì tâm sở thọ có mặt nơi đó. 
	Trở về với 
hơi thở, sau khi chúng ta với sự tinh cần tinh tấn, nhiệt tâm huấn tập 
với chánh niệm tỉnh giác với hơi thở vô biết rõ hơi thở vô, hơi thở ra 
biết rõ hơi thở ra, bây giờ đến giai đoạn : ‘khi thở vô dài, biết rõ thở
 vô dài, khi thở vô ngắn, biết rõ thở vô ngắn’
	Như thế nào 
là khi thở vô dài, biết rõ thở vô dài; khi thở vô ngắn, biết rõ thở vô 
ngắn ? Cũng như đã trình bày ở phần trên chúng ta căn cứ vào sự tiếp xúc
 của hơi thở xúc chạm vào đầu mũi để biết được hơi thở ra, vô. Cùng thế 
ấy, khi hơi thở vô dài, biết rõ, có nghĩa là căn cứ trên sự chánh niệm 
ghi nhận sự xúc của hơi thở vô dài thì được biết đó là hơi thở vô dài, 
thở ra dài, chánh niệm  ghi nhận sự xúc của hơi thở ra dài thì được biết
 đó là thở ra dài; Cùng thế ấy, thở vô ngắn tức là sự chánh niệm ghi 
nhận sự xúc của hơi thở ngắn, thì biết hơi thở vô ngắn, mặc dù hơi thở 
còn dài nhưng sự chánh niệm ghi nhận chỉ ngắn hạn, cho nên ở đây cần 
được biết đó là hơi thở vô ngắn căn cứ trên chánh niệm  không căn cứ 
trên hơi thở, vì thở mà không biết thở thì không được coi là thở ; Ở đây
 chỉ có sự chánh niệm ghi nhận biết rõ hơi thở vào ra chứ không có ai 
hay người nào biết sự vào ra của hơi thở và cũng cần nói thêm là sự biết
 rõ hơi thở dài, ngắn là do chính trí tuệ biết rõ, tự nó phân định cái 
nào dài cái nào ngắn tuỳ theo thời gian không gian chứ không có cái mình
 biết dài ngắn hoặc không do tưởng hơi thở hít chạy sâu vào đến rún thì 
là dài còn đến ngực thì là ngắn  ...Thật ra, hơi thở khi thở vào chỉ đi 
vào phổi mà thôi không có đi xuống bụng cho nên sự việc bụng phồng ra là
 do hơi thở vào trong phổi rồi ép hoành cách mô làm cho hoành cách mô ép
 xuống làm cho gió trong bụng đẩy da bụng phồng ra, thế thôi; Còn niệm 
thi ghi nhận hơi thở vào, ra.
	Do vậy, nếu 
chúng ta tu tập chánh niệm trở nên thuần thục nhu nhuyễn thì sự tu tập 
sẽ trở thành Niệm  giác chi (một trong thất giác chi) liên hợp đến hơi 
thở vô, hơi thở ra, đưa đến viễn ly, ly tham, đoạn diệt các ác pháp và 
hướng đến từ bỏ; Cùng thế ấy, toàn bộ thất giác chi  ‘niệm - trạch - tấn
 - hỷ - khinh - định  - xả’ câu hữu với niệm hơi thở vô, ra liên hệ đến 
viễn ly, ly tham, đoạn diệt và hướng đến từ bỏ. Đó là kết quả thù thắng 
do niệm hơi thở đem lại .
	Lại nữa, nếu
 chúng ta tu tập luyện niệm hơi thở vô, hơi thở ra, chánh niệm và tĩnh 
giác được làm cho sung mãn thời sự chờ đợi sẽ được một trong hai quả sau
 đây: ngay trong hiện tại chứng được chánh trí thành tựu cứu cánh giải 
thoát, nếu có dư y thì chứng quả bất lai.
	Đó chỉ là sự
 diễn đạt cho chúng ta thấy được sự thù diệu của kết quả niệm hơi thở mà
 thôi. Bây giờ chúng ta còn phải nhiệt tâm tinh cần để  thâm nhập vào 
thập lục tuệ quyền môn để bước vào giải thoát thánh đạo môn.
	Với sự nổ 
lực quyết chí để thành đạt cứu cánh cuối cùng, chúng ta dồn hết tâm trí 
cắm sâu vào hơi thở vào, ra đưa tâm hướng đến một trạng thái cận định 
vững vàng, rồi từ đó chúng ta khai thác toàn bộ trí tuệ có được soi thấu
 một cách cẩn thận tỉ mỉ cái ngũ uẩn  thủ (sắc, thọ, tưởng, hành, thức) 
mà từ xưa đến nay mình vẫn xem nó là tự ngã của chính mình, và khi quán 
chiếu như vậy chúng ta sẽ khám phá ra :
	Cánh cửa đầu
 tiên đã mở chính do sự soi thấu của trí tuệ khám phá ra rằng cái mà từ 
xưa chúng ta cho đó là ta, là tự ngã của ta hay linh hồn gì đó đó chỉ là
 sự kết hợp của hai tập hợp danh và sắc. Danh bao gồm hai thành phần tâm
 và tâm sở kết hợp nhau trôi chảy liên tục không hề gián đoạn và sanh 
khởi rồi diệt mất do sự tiếp xúc giữa sáu căn, sáu cảnh tác động làm 
duyên. Còn sắc thì bao gồm những yếu tố năng lực cấu thành và những bản 
chất đặc thù biến dạng dưới mọi hình thức. Đây là cánh cửa đầu tiên còn 
được định danh tuệ biệt phân danh sắc (nàmarùpa-ricchedanàna), tức trí 
phân định rõ, biết rõ cái mà chúng ta từng xem là người, trời, thú... 
chỉ là tổng hợp của hai thành phần danh sắc (đây là trí tu biết được, 
không phải trí tư hay trí văn). Không bước qua được cửa nầy thì coi như 
chưa có gì cả, cố gắng thêm lên và cũng đừng vội mơ tưởng đến những gì 
xa xôi nhé. bây giờ mời quý vị bước vào cửa thứ hai.
	      2.   Nhị tuệ quyền môn:
	Sau khi 
chúng ta bước qua được nhất tuệ quyền môn, đã thấy được thật tướng của 
chính mình, không còn dính mắc về những quan kiến sai lầm, vượt thoát 
lên những tạp niệm về cái gì đó mà chúng ta cho là bản ngã hay một linh 
hồn với một thân xác đồng nhất thể, bất biến thường trụ, vĩnh hằng, giờ 
đây chúng ta bước vào cánh cửa thần kỳ thứ hai để tìm cho ra được do 
nhân gì duyên gì cái thân ngũ uẩn nầy xuất hiện? 
	Một tia sáng
 cuối đường hầm phát loé lên cho chúng ta thấy được rằng : mọi thứ trên 
đời nầy từ vật chất đến tâm linh đều là do sự cấu hợp mà thành, thuộc 
hữu vi pháp, chúng có được là do nhiều duyên hợp tạo, vạn pháp do duyên 
sanh. Với cặp mắt trí tuệ cho thấy có được kiếp sống nầy là do bốn nhân 
thuộc quá khứ: vô minh, ái, thủ và nghiệp quá khứ cùng với nhân hiện tại là vật thực
 (tứ thực) của đời sống hiện tại nầy tạo thành. do nghiệp quá khứ kết 
tạo duyên cho đời sống hiện tại, cùng thế ấy, do nghiệp hiện tại sẽ trợ 
tạo cho đời sống tương lai (www.artandclassicalguitar.com
 mục budhist,d.origination). Cánh cửa đệ nhị tuệ quyền môn nầy còn được 
gọi là : tuệ duyên đạt (paccayapariggahanàna) tức  trí tuệ biết rõ duyên
 khởi của danh sắc và chính do sự hiểu biết nầy trí tuệ của chúng ta 
vượt lên trên mọi sự hoài nghi tam thế (quá khứ, hiện taị, vi. lai).
	Tiếp đến là cánh cửa thần kỳ thứ ba :
	      3.  Tam tuệ  quyền môn:
	Với đà tiến triển và phát huy một cách mạnh mẽ của trí tuệ càng lúc càng sâu sắc và nhạy bén hơn, tam tướng ‘vô thường, khổ, vô ngã’ 
 hiển lộ một cách rõ ràng, Cho nên dù trong bất kỳ nơi đâu, bất kỳ cảnh 
giới nào, tất cả đều trôi chảy không ngừng, Tất cả đều đau khổ, không có
 một cái gì là hạnh phúc thật sự và cái gì thay đổi không bền vững thì 
cái đó là đau khổ và cái gì thay đổi lẩn đau khổ thì không thể nói rằng 
có một linh hồn trường cửu bất biến, một tự ngã thường hằng bất dịch. Đó
 là cánh cửa thần kỳ thứ ba đã được mở dưới danh hiệu phổ thông tuệ 
(samma-sananàna) phá tan sự ngu muội của hầu  hết phàm 
phu tục tử hay lầm tưởng là có  một cái gì đó vô hình vô tướng trường 
cửu bất biến bên trong mỗi một con người là có thật .
	 
	       4.  Tứ tuệ quyền môn :
	Cánh cửa 
thần kỳ thứ ba đã đem lại cho chúng ta một niềm hoan hỉ qua sự nhận thức
 được thật tướng của các pháp và từ tại điểm nầy với lòng nhiệt huyết 
chuyên tâm tu tập không ngừng nghỉ..., Một ngày đẹp trời bỗng nhiên toàn
 thân phát tủa ra ánh sáng (obhàsa), lòng hân hoan thỏa thích sung sướng
 hòa quyện trong niềm hạnh phúc vắng lặng chưa từng có, lòng càng tinh 
tấn thêm lên, phát triển tâm niệm càng lúc càng sâu sắc hơn, tuệ quyền 
càng bén nhạy như gươm thần, hào quang càng toả sáng, thế là phát sanh 
tư tưởng thỏa thích trạng thái nầy, dính mắc trong đó; Ở đây, nếu không 
có các bậc thiện trí nhắc nhở hoặc thiếu trình độ học thức về Phật học 
thì chúng ta có thể lầm tưởng rằng mình đã đắc quả thánh vì thấy mình có
 hào quang như bậc thánh mà người đời đã truyền tụng rồi cuốn chiếu về 
nhà tuyên bố kết quả mà mình có được. May mắn nếu có sự nhắc nhở của các
 bậc thiền sư nên mới nhận thức ra được rằng đây chỉ là  một trở ngại 
cho bước đường tu tập cản trở việc phát triển tuệ giác của chính mình, 
và từ đây, không dừng bước cố gắng trau giồi phát triển cho được trong 
sạch tiến bộ thêm lên. Đây là cánh cửa thần kỳ thứ tư được định danh là 
đạo phi đạo tri kiến tịnh . (maggàmagga nàna dassa visudhi).
	      5.  Ngũ tuệ quyền môn :
	Sau khi mục 
kích quán sát nhận chân ra được đâu là con đường chân chánh đâu là phi 
chân, với mức độ tiến hoá dang trên đà, chúng ta quyết chí dồn hết tâm 
trí gom tâm quán chiếu vào trạng thái của các pháp, một ánh sáng thù 
diệu khác phát sanh soi rọi cho chúng ta thấy được với trí tuệ thực 
chứng rằng các pháp hưũ vi phát sanh lên và hoại diệt một cách rõ rệt . 
Một cánh cửa thần kỳ thứ năm đã mở có danh hiệu tuệ sanh diệt 
(udayabbayanàna).
	      6.   Lục tuệ quyền môn
	Quán chiếu 
sự sanh diệt trong khoảng thời gian, chúng ta lại một lần nữa thấy được 
điều kỳ diệu hơn chính là sự hoại diệt được hiển bày một cách mạnh mẽ, 
rõ và trưởng hơn sự sanh,. Từ đó tuệ quán nhận chân ra được sự biến mất,
 sự tàn lụi một cách rõ ràng hơn hiển nhiên hơn là sự phát sanh. Đây 
được gọi là tuệ diệt (bhanganàna).
	      7.  Thất tuệ quyền môn
	Sau khi bước
 qua trạng thái hoại diệt của các pháp hưũ vi, chúng ta thấy được tất cả
 những gì thuộc danh sắc đều tan biến, điêu tàn, đổ vỡ tạm bợ, từ đó 
phát sanh lòng kinh cảm trước mối hiểm họa đáng khiếp đảm của các pháp 
thế gian nầy. Tại đây cánh cửa nầy được goị là tuệ  hiểm nguy 
(àdìnavanàna).
	      8.  Bát tuệ quyền môn
	Bước qua 
được cánh cửa đầy nguy hiểm, từ đó phát sanh một cảm  giác nhàm chán 
không còn tha thiết gì với các pháp hưũ vi nầy nữa, Tất cả đều là giả 
dối, tạm bợ..; và khi tuệ quán nầy phát sanh thì khi đó có được một 
trạng thái được gọi là yếm  ly tuệ, hay chán nản tuệ (nibbidànàna)
	      9.  Cửu tuệ quyền môn
	Một khi đã 
sanh tâm nhàm chán bất kỳ điều gì thì từ đó chúng ta mong muốn được tẩu 
thoát ra khỏi nó; Với lòng mong muốn như vậy, quyết tâm nỗ lực vượt ra 
các pháp và tuệ giải thoát phát sanh đến vói chúng ta như ý nguyện. Cánh
 cửa thần kỳ thứ chín đã mở với danh hiệu dục thoát tuệ 
(muncitukamyatànàna).
	     10.  Thập tuệ quyền môn
	Với sự quyết
 ly mong thoát ra khỏi các pháp hưũ vi, lần nầy chúng ta quay trở lại 
quán sát một cách tận tường tỷ mỷ qua tam tướng vô thường, khổ, vô ngã ,
 và khi đã quan sát như vậy một lần nữa chúng ta bước qua ngưỡng cửa thứ
 mười được định danh là quyết ly tuệ, hay suy tư tuệ (patisankhànàna).
	     11.  Thập nhất tuệ quyền môn
	Sau khi quán
 xét tỉ mỉ về tam tướng, chúng ta biết rõ thực tính của pháp hữu vi 
không vượt ngoài tam tướng, do vậy tâm trạng trở nên lắng dịu bình thản 
và ung dung bước qua ngưỡng cửa thứ mười một nầy, Cho nên cánh cửa thần 
kỳ nầy được goị là hành xả tuệ (sankhàrupekkhànàna).
	     12.  Thập nhị tuệ  quyền môn
	      Khi
 trí tuệ khởi lên ở giai đoạn nầy sẽ bắt đầu hướng thẳng tiến đến niết 
bàn, lấy niết bàn làm đối tượng, trong thời điểm nầy cánh cửa thần kỳ 
thứ mười hai được gọi là thuận thứ tuệ (anulomanàna).
	     13.  Thập tam tuệ quyền môn
	Đến đây là 
cánh cửa cực kỳ quan trọng vì là giao điểm  giữa phàm và thánh tánh, cho
 nên được định danh là tuệ chuyển tộc nhưng tuệ nầy vẫn còn thuộc lãnh 
vực phàm và đang chuẩn bị chuyển sang một gia tộc khác (gotrabhùnàna).
	     14.  Thập tứ tuệ quyền môn
	Trình độ tuệ
 giác phát sanh đến mức độ cận kề như thế nầy rồi, từ đây chúng ta chỉ 
còn chọn một trong ba đặc tướng ‘vô-thường- khổ- vô ngã’ và tùy theo mỗi
 một người, ai hợp với tướng nào thì tập trung nắm lấy đề mục đó hạ thủ 
công phu khai triển tuệ giác liên tục không ngừng nghỉ vì để bước qua 
được cánh cửa nầy là cả một vấn đề nan  giải cho nên phải tận lực dồn 
tất cả trí tuệ vào để phá vỡ và làm nổ tung cánh cửa thần kì nầy. Một 
ngày đẹp trời nào đó với năng lực gươm báu  trí tuệ  sẽ phá vỡ cánh cửa 
thần kỳ hoặc xé tan bức màn vô minh mà đã bao nhiêu đời kiếp bao phủ trí
 tuệ chúng ta,và từ đó, ánh sáng bình minh đã ló dạng, ngày vinh quang 
đã đến, mục tiêu mà chúng ta muốn đạt được đã đến chính là đạo quả niết 
bàn, một trạng thái hạnh phúc siêu thế vô sanh bất diệt, một hạnh phúc 
tuyệt đối chưa từng có đối với các hạng phàm phu và từ đây chúng ta đã 
trở thành một thánh nhân, đã chuyển sang giòng tộc thánh không còn hệ 
lụy với phàm phu tánh nữa, cánh cửa nầy được vinh danh là Tuệ đạo giải 
thoát môn (magganàna). Ôi, hạnh phúc thay!
	 
	     15.  Thập ngũ tuệ quyền môn
	Một khi trí 
 đạo đã phát sanh với công năng sát trừ phiền não thì liền sau đó trí 
quả cũng phát sanh theo để duyệt xét và hưởng thụ trạng thái niết bàn,vô
 sanh bất diệt, hạnh phúc tuyệt vời và tại đây được vinh danh là tuệ quả
 giải thoát môn (phalanàna).
	     16.  Thập lục tuệ quyền môn
	Sau khi đã 
chứng đắc đạo quả thánh nhân, thời điểm cuối cùng nầy chỉ là quay trở 
lại dùng tuệ quán xét các phiền não đã diệt, xét nghiệm các đạo quả đã 
thành tựu và chiêm nghiệm lại niết bàn  mà chính mình đã chứng ngộ. Tại 
đây được vinh danh là phản kháng tuệ (paccavekkhananàna).
	Như vậy toàn
 bộ 16 cánh cửa thần kỳ cũng như những điều bí ẩn của hơi thở đã được 
trình bày hầu mong đem đến cho quý vị độc gỉả những điều lợi ich và chắc
 chắn không sao tránh khỏi những thiếu sót kính mong quý cao nhân hoan 
hỉ cho. 
	 
	__()__
	 
	 
	Hồi hướng
	Do phước quý
 báu nầy, chúng con xin  hồi hướng đến tất cả các vị đại phạm thiên, 
phạm thiên, chư thiên các cõi trời  dục giới cùng các vị chư thiên trong
 vòng quả địa cầu nầy, diêm vương..cầu mong các vị hoan hỷ thọ lảnh 
phước báu nầy và hộ trì cho con và toàn thể gia đình luôn được an vui 
hạnh phúc, gặp nhiều thuận may trong đời sống, tất cả tật bệnh thảy đều 
tiêu tan.
	Cùng với 
phước báu nầy nguyện xin hồi hướng đến các bậc thầy tổ cùng tất cả chư 
tôn thiền đức Tăng Ni trên toàn thể quả địa cầu nầy, cầu  mong các ngài 
được thọ lảnh phước báu nầy cho được thân tâm an lạc, thành tựu mọi điều
 như ỷ nguyện.
	Với pháp thí
 cao thượng, xin hồi hướng đến thân bằng quyến thuộc đã quá  vãng cũng 
như còn tại tiền, các bậc ân nhân và nhất là Cha hiện đang trọng bệnh, 
cầu mong do quả phước nầy sẽ giải trừ tất cả tật bệnh mọi sự thống khổ 
thảy đều tiêu tan đến với cha.
	Lời nguyện
	Ước mong tôi
 cùng toàn thể gia đình luôn được an vui hạnh phúc an lạc mọi phương 
diện, mọi trú xứ và luôn có đầy đủ trí tuệ sớm thành tựu cứu cánh giải 
thoát, chứng ngộ nibbàna. 
	 Hoàng Đặng - King milanda  
	Wednesday, May 6 , 2010 , Indianapolis, IN                       email:saccayamaka@yahoo.com                                            
- 
		Gió chuyển lên (ợ, ngáp,ắc xì..)
- 
		Gió chuyển xuống (đánh dấm ..)
- 
		Gió thường trực trong bụng 
- 
		Gió khắp toàn thân  
- 
		Gió  chuyển dịch trong các bộ phận cơ quan của cơ thể 
- 
		Hơi thở vào, ra. 
- 
		Nhất tuệ quyền môn:
Nguồn tin: King milanda