Nghiệp
 là thói quen huân tập tạo thành sức mạnh chi phối tất cả mọi sinh hoạt 
trong cuộc sống của con người từ khi mở mắt chào đời cho đến khi nhắm 
mắt và những đời kế tiếp. Nếu người Phật tử tu mà không hiểu rõ về 
nghiệp thì khó mà ứng dụng tu hành để tới chỗ an lạc. Chữ nghiệp trong 
nhà Phật không có nghĩa một chiều, hễ nói nghiệp thì phải là điều xấu 
điều ác. Kỳ thật, nghiệp cũng có xấu và cũng có tốt, nghiệp cũng có 
nghiệp chung và nghiệp riêng. Nghiệp riêng thì gọi là biệt nghiệp và 
nghiệp chung thì gọi là đồng nghiệp. 
Trong
 kinh Thủ Lăng Nghiêm, Phật có lấy một ví dụ để nói về nghiệp vọng kiến.
 Khi đó Đức Phật nói: Trước một cây đèn đang cháy, người nhặm mắt thấy 
chung quanh ngọn đèn có một cái vòng đỏ hoặc xanh. Còn những người mắt 
lành thì chỉ thấy ngọn đèn đang cháy mà không thấy vòng đỏ hay vòng 
xanh. Cái vòng quanh đèn chỉ có đối với người bị nhặm mắt, đó là do 
nghiệp riêng của người bệnh mắt mà có thấy, còn người không bị nhặm mắt 
thì không thấy. Cũng vậy, trong cuộc sống giữa đời này tuy sống có mối 
liên hệ với nhau, nhưng mỗi người đều có mỗi cái nghiệp riêng của họ. 
Ví
 dụ: Người có nghiệp chủng đồng bóng như thầy bùa, thầy pháp thì họ cho 
rằng có ma quỉ. Còn người có tinh thần khoa học thực tế thì họ không tin
 có ma quỉ, họ chỉ tin những sự việc mà họ thấy và chứng minh cụ thể. 
Vậy những sự việc mà một hay vài người thấy đó là nghiệp riêng của họ, 
vì họ chuyên làm cùng nghề cùng nghiệp thì họ hưởng ứng với nó. Cũng sự 
kiện đó mà người khác không thấy là vì họ không có nghiệp đó. 
Kinh
 Phật ví dụ: Có hai vợ chồng kia, chồng thì mù, vợ thì điếc, hai vợ 
chồng dắt nhau ra chợ, chồng đàn vợ hát để kiếm tiền sinh sống. Hôm đó 
có một đám tang lớn đi qua, người chồng nghe tiếng trống kèn bèn nói với
 vợ: 
- Đám ma lớn quá, thổi kèn đánh trống inh ỏi. 
Người vợ cãi lại: 
- Ông nói bậy, đâu có kèn trống, tôi chỉ thấy cờ phướn, chớ không nghe tiếng kèn trống. 
Người chồng không chịu cãi lại: 
- Bà nói bậy, tôi chỉ nghe thấy kèn trống, chớ đâu có thấy cờ phướn. 
Có
 như thế mà hai ông bà cãi lộn nhau, chồng thì nói có kèn trống không có
 cờ phướn, vợ thì nói có cờ phướn mà không có kèn trống. Chồng tự cho là
 mình đúng, vợ cũng cho là mình không sai, hai vợ chồng cãi nhau hoài 
không ai chịu thua, giận tức nổi lên liền đánh lộn nhau. Người đi đường 
thấy mới can gián và hỏi duyên cớ. Người chồng phân bua: 
-
 Tôi nghe đám ma thổi kèn đánh trống, tôi nói có kèn trống bả không 
chịu, bả nói tôi nói bậy, bả nói chỉ có cờ phướn, không có kèn trống, 
nên mới cãi nhau rồi nổi giận đánh lộn. 
Người đi đường mới nói: 
-
 Thưa ông bà, hai ông bà đều đúng cả, mà hai ông bà cũng đều sai. Vì đám
 ma này có kèn có trống như ông nghe mà cũng có cờ phướn như bà thấy. 
Nếu
 người chồng nghe tiếng kèn trống mà nhớ mình mù không thể thấy cờ 
phướn, và người vợ thấy cờ phướn mà nhớ mình điếc không thể nghe tiếng 
kèn trống thì đâu có cãi vả và đánh lộn nhau. Tại người nào cũng chủ 
quan, cho cái thấy nghe của mình là chân lý nên mới xảy ra cuộc cãi vả 
và đánh lộn nhau. Đó là nghiệp khác nhau, không thể chấp nhận nhau. 
Cũng
 vậy, chúng ta sanh ra đời mỗi người mang theo nghiệp riêng của mình mà 
cùng sống chung với nhiều người khác, mỗi người chấp giữ và làm theo 
nghiệp riêng của mình mà không thừa nhận nghiệp riêng của người khác, 
nên mới có sự cãi vả tranh chấp. Trong một gia đình, ông chồng thì huân 
tập cái nghiệp của người nam, bà vợ thì huân tập cái nghiệp của người 
nữ. Hai cái nghiệp nam nữ tuy có vài điểm tương đồng, nhưng cũng có 
nhiều điểm khác biệt. Nên có nhiều gia đình vợ chồng gây cãi, đánh đập 
nhau hoài là vì chấp lý của mình là đúng, vợ cũng chấp lý của mình là 
đúng không biết dung hòa nhau để sống. Cái đúng của người chồng là do 
thói quen huân tập cái nghiệp của người nam. Cái đúng của người vợ là 
theo thói quen huân tập cái nghiệp của người nữ, thế nên phải thông cảm 
nhau để đối xử cho tốt đẹp, đem lại sự an vui hòa thuận trong gia đình. 
Khi chúng ta biết mỗi người có nghiệp riêng thì không chủ quan, không 
chấp mà thông cảm hòa nhịn được cuộc sống với mọi người. 
Xưa
 có một gia đình, người vợ thì tương đối tốt, biết bổn phận, biết lo làm
 ăn, người chồng thì bê tha rượu chè cờ bạc. Mỗi lần ông cờ bạc thua, về
 nhà là khảo tiền, nếu bà không có để ứng thì ông chửi đánh thậm tệ. 
Người thân thuộc, láng giềng ai thấy cũng đau lòng thắc mắc tại sao bà 
không ly dị cho rồi, cứ để ông hành hạ khổ sở như thế? nhưng khi hỏi bà,
 thì bà không thể ly dị vì bà còn thương ông. Có nhiều gia đình có những
 đứa con ngỗ nghịch bất hiếu, phá gia sản gần khánh tận. Vậy mà gia đình
 vẫn thương, không thể từ bỏ, vì cha mẹ có cái nghiệp riêng với con. Để 
thấy cái nghiệp riêng của người, mình là kẻ ngoại cuộc không có nghiệp 
đó thì không chấp nhận, không chịu nổi. Còn người đã có nghiệp, có nợ 
nần nhau, dù bị đánh đập, phá phách, đối xử tàn tệ mà người ta vẫn chấp 
nhận chung sống, không thể rời nhau được. Như vậy, nếu biết được mỗi 
người có cái nghiệp riêng thì chúng ta có thái độ sống hết sức dung hòa,
 không thắc mắc, không trách cứ những hoàn cảnh khó khăn rắc rối mà 
người trong cuộc không giải quyết dứt khoát được, vì nghiệp riêng của 
họ. 
Nghiệp
 chung tức là đồng nghiệp vọng kiến. Cũng trong kinh Thủ Lăng Nghiêm 
Phật có dạy: Người có nghiệp chung mới sinh ra ở chung một nước, nói 
cùng một ngôn ngữ, sống cùng một tập quán... Nếu có cùng nghiệp xấu thì 
cùng thấy điềm bất tường như sao chổi, sao phướn... Chỉ có dân nước đó 
trông thấy mà dân nước khác không thấy. Cũng giống như những người nhặm 
mắt cùng thấy chung quanh ngọn đèn đang cháy có một cái vòng xanh hay 
đỏ, còn những người không nhặm mắt thì không thấy. Vậy, người cùng 
nghiệp thì cùng cảm nhận hiện tượng giống như nhau. Có nhiều người thắc 
mắc tại sao anh chị em cùng cha mẹ sanh ra trong một gia đình, rầy la 
cãi hoài. Hoặc vợ chồng chấp nhận sống chung trong một gia đình, mà kẻ ý
 này người ý kia, bất hòa hờn giận nhau hoài là tại sao? Nếu không có 
duyên nghiệp với nhau tại sao gặp nhau, sống chung với nhau để khổ? 
Chúng ta nên biết khi gặp nhau là đã có nghiệp đồng phần rồi, tức là đã 
có cộng nghiệp nên cùng ở chung với nhau.
 Tuy ở chung với nhau, mà mỗi người cũng có cái nghiệp riêng nên không 
ai giống ai. Nếu có giống chăng chỉ giống năm sáu mươi phần trăm là tối 
đa, không bao giờ có hai người giống nhau từ hình dáng đến tính tình. 
Phần giống nhau thì gọi là đồng nghiệp, vì đồng nghiệp nên mới cùng nhau
 sanh trong một gia đình, trong một đất nước. Và vì mỗi người có cái 
nghiệp riêng nên có người thì giàu sang sung sướng, an vui hạnh phúc, 
lại có người bần cùng khốn khổ. Hoặc anh em cùng cha mẹ sinh ra, học 
chung một trường mà có người học giỏi có người học dở. Đó là trong cái 
đồng nghiệp vẫn có cái biệt nghiệp, mà dù là đồng nghiệp hay biệt nghiệp
 Đức Phật đều gọi là vọng kiến. Vọng kiến là cái thấy hư dối không thật.
 
Tại
 sao nói nghiệp là vọng kiến? Ví dụ có người nói lời xúc não làm cho 
mình nổi giận, khi nổi giận thì nói lời hung ác mắng chửi, tay thì đánh 
đập người ta. Khi đánh đập chửi mắng người, thì bị luật pháp trừng trị, 
cái khổ của tội phạm pháp này ít nhất cũng một tháng. Và nếu mình có sức
 mạnh, có võ nghệ, đánh người chết tại chỗ, thì tù tội khổ sở ít nhất 
cũng 10, 15 năm. Vậy, miệng nói bậy, thân làm bậy, đó là nghiệp ác, và 
nghiệp ác đó từ ý nổi sân mà ra. Ý sân chỉ nổi lên khoảng 5, 10 phút mà 
hậu quả không lường được. Nghiệp ác của miệng và thân có ra, là do ý ác 
chủ động, ý ác tức là niệm sân, chúng ta nhìn xem tướng trạng của nó ra 
sao? Khi (chúng ta) nhìn nó thì nó mất tiêu, không thấy hình dáng tướng 
mạo nó ở đâu cả, mà không hình dáng không tướng mạo thì không thật. Như 
vậy, chính cái chủ động tạo nghiệp (ý sân) là không thật. Cái không thật
 mà chỉ vì chúng ta mê chạy theo nó để tạo nghiệp thọ khổ thì thành có 
thật. Nên Ngài Khuê Phong nĩi: "Thế không mà thành sự". Bản chất của cơn
 giận vốn là không, bất giác theo nó tạo nghiệp nên trở thành thật. Đó 
là nghiệp ác. 
Còn
 nghiệp lành cũng vậy, giả sử chúng ta đi đường gặp người bệnh tật đang 
nằm rên rỉ bên đường, chúng ta khởi lòng thương đem họ vô lề đường kêu 
xe chở tới bệnh viện để chữa trị. Vậy, lòng thương hình dáng tướng mạo 
như thế nào? Có thật không? Không. Nhưng khi theo nó thì tạo nghiệp 
lành, thân miệng ý nói làm lợi ích cho người. Cái gốc tạo nghiệp ác hay 
nghiệp lành bản chất nó không có thật, nhưng khi theo nó thì sẽ thành 
nghiệp hoặc lành hay dữ. Phật dạy nghiệp là cái không thật, tuy không 
thật, nếu đã làm thì sẽ cho quả, chớ không tránh khỏi. Trốn tránh người 
thế gian thì được, mà nghiệp thì không thể trốn được. Vì khi tạo nghiệp 
thì mắt thấy tai nghe thân cảm thọ, chủng tử nghiệp đã chứa vào tạng 
thức rồi, hội đủ duyên thì quả kết tụ. 
Về
 ý nghĩa đồng nghiệp, trong kinh có ghi: Một hôm Phật ở trong hương thất
 trong núi Linh Thứu, gần đó có nhiều đoàn Tỳ Kheo đi thiền hành. Đoàn 
thứ nhất đi theo Tôn Giả Xá Lợi Phất. Đoàn Tỳ Kheo thứ hai dẫn đầu là 
Tôn Giả Mục Kiền Liên. Đoàn thứ ba các Tỳ Kheo đi sau Tôn Giả Ma Ha Ca 
Diếp. Đoàn thứ tư gồm những Tỳ Kheo đi theo Tôn Giả A Na Luật. Đoàn thứ 
năm là một số Tỳ Kheo đi theo Tôn Giả Phú Lâu Na. Đoàn thứ sáu là những 
Tỳ Kheo đi theo sự hướng dẫn củaa Tôn Giả Ưu Ba Ly. Đoàn thứ bảy là 
những Tỳ Kheo đi theo sau Đề Bà Đạt Đa. Khi đó Phật mới nói với các vị 
Tỳ Kheo đang ở bên cạnh: 
Những
 Tỳ Kheo cùng đi theo Xá Lợi Phất là những Tỳ Kheo có trí tuệ lớn. Những
 Tỳ Kheo cùng đi với Mục Kiền Liên là những Tỳ Kheo có đại thần thông. 
Những Tỳ Kheo đi theo Ma Ha Ca Diếp là những Tỳ Kheo ưa tu hạnh đầu 
đà... Còn những Tỳ Kheo mà đi theo Đề Bà Đạt Đa là những Tỳ Kheo có tâm 
ác dục". 
Và
 Phật kết luận rằng: Ai cùng đi theo người nào là đã có cái nghiệp chung
 với người đó. Những Tỳ Kheo đi theo Tôn Giả Xá Lợi Phất là có cái 
nghiệp chung với Ngài về trí huệ. Những Tỳ Kheo đi theo Tôn Giả Mục Kiền
 Liên là có nghiệp chung với ngài về thần thông. Cho tới các Tỳ Kheo đi 
theo Đề Bà Đạt Đa cùng có nghiệp chung về ác dục. Cái nghiệp chung đó có
 từ quá khứ, hiện tại, vị lai cứ theo nhau không rời. Đó là cộng nghiệp 
của những Tỳ Kheo thời xưa, được Phật dạy trong kinh. Còn cộng nghiệp 
trong thời hiện tại, chúng ta thậy rất thực tế và cụ thể. Người thích 
rượu chè say sưa thì cùng ăn chơi thân cận với người uống rượu Người ưa 
cờ bạc thì giao du với người cờ bạc. 
Người
 chuyên cần học hành nghiên cứu thì tới lui thân cận với người nghiên 
cứu học hành. Người thích đi chùa tụng kinh niệm Phật thì kết bạn với 
người đi chùa tụng kinh niệm Phật. Như vậy, người này thích người kia là
 họ có chung nghiệp (đồng nghiệp) nên mới hợp nhau. Để thấy trong cuộc 
sống này, mọi người cùng có nghiệp chung, nên mới trở thành chồng vợ, 
cha con, anh em, bạn bè. Và vì ai cũng có nghiệp riêng nơi dáng mạo, 
tánh tình năng khiếu, trí tuệ sai khác, không ai giống ai. Vậy, nghiệp 
nó chi phối cả đời sống chúng ta, nếu huân tập sâu nghiệp nào thì nghiệp
 đó có sức mạnh, có hấp lực thu hút chúng ta đến môi trường của nghiệp 
đó. Vì vậy, người Phật tử biết tu hành thì thân khẩu ý luôn luôn phải 
thiện lành, mới chiêu cảm được biệt nghiệp tốt và đồng nghiệp thiện. 
Nếu
 tu còn trong vòng tương đối, thì phải biết tránh nghiệp ác, tạo nghiệp 
lành để tạo thân tốt, tức là được biệt nghiệp tốt và sanh trong cõi 
thiện, có đồng nghiệp thiện. Tiến thêm một bước nữa, nếu biệt nghiệp là 
không thật, do ý sanh ra, mà ý cũng không thật có, nó là niệm phân biệt 
chợt hiện chợt mất, nên không theo là dừng nghiệp ý. Nghe nói trái tai 
vừa nổi bực tức muốn đánh chửi người, liền nhìn lại xem coi cái bực tức 
hình tướng thế nào, phát xuất từ đâu? Tìm lại không thấy hình tướng của 
bực tức, mà nguồn gốc khởi bực tức cũng không còn nữa. Thấy của người 
lòng tham vừa móng khởi muốn lén lấy, liền nhì lại coi tướng trạng của 
tham lam như thế nào, phát xuất từ đâu? Khi nhìn kỹ lại thì không thấy 
hình dáng của tham lam, và nơi chốn phát xuất ra tham lam cũng không có 
nữa. 
Như
 vậy, nghiệp phát xuất từ ý, rồi miệng, ra thân, mà ý là gốc phát ra 
nghiệp đã không thật, thì nghiệp miệng nghiệp thân làm gì có thật? Sở dĩ
 thấy nghiệp có thật là do mê. Những nơi khác dạy khi đổi duyên xúc 
cảnh, nếu có khởi tham lam sân giận, thì cứ lo niệm Phật nhớ Phật, thì 
tham lam sân giận sẽ lắng xuống. Đó cũng là một cái thuật đối trị bệnh 
tham bệnh sân. Ở đây thì chúng tôi chủ trương dùng trí nhìn lại những 
cái xấu như tham, sân, kiêu mạn... hình dáng tướng trạng ra sao, phát 
xuất từ đâu? Khi nhìn lại nếu nó tan biến là nó không thật thì nó không 
có sức mạnh khiến mình nói làm theo nghiệp ác. Và cứ mỗi lần đổi duyên 
xúc cảnh, nếu có tham sân... dấy khởi lên nhìn lại xem tường tận thấu 
đáo, thấy nó không thật thì nó không chi phối mình nói làm sai quấy. Khi
 tâm chúng ta thanh tịnh là đã cắt đứt được dòng tạo nghiệp là vọng 
tưởng là ý nghiệp không còn luân hồi sanh tử, được giải thoát.
HT.Thích Thanh Từ