Ngài thường được gọi là Đức
Phật Cồ Đàm (Buddha Gotama). Chữ "Phật" là
tiếng gọi tắt của "Phật Đà", phiên âm từ
chữ Phạn "Buddha" - người bình dân Việt Nam có nơi
gọi là ông Bụt - nghĩa là người đã giác ngộ (Giác
Giả) . Trong các kinh sách ghi lại, ngài thường tự gọi mình
là Tagatatha (Như Lai). Ngài có rất nhiều đệ tử từ các
quốc gia trong vùng, gồm đủ mọi thành phần trong xã
hội, lứa tuổi, nam nữ, và từ nhiều nguồn gốc tín ngưỡng
khác nhau.
Đức Phật đã để lại một
kho tàng quí giá gồm nhiều bài thuyết giảng (Kinh, Sutta),
thường được gọi tổng quát là "tám vạn bốn ngàn"
pháp môn, trong nhiều dịp giảng dạy cho hàng đệ tử,
bậc thánh thanh văn, cư sĩ, ... Với sự phát triển và bành
trướng của Tăng đoàn, Ngài đặt ra nhiều giới luật để
tạo điều kiện thuận lợi trong công tác tu tập (Vinaya,
Giới). Ngoài ra còn nhiều bài giảng đặc biệt khác mà
về sau nầy được đúc kết lại trong bộ A Tỳ Đàm
(Abhidhamma).
Kết Tập Đầu
Tiên
Ba tháng sau khi Đức Phật tịch
diệt, một đại hội các vị tu sĩ (Tỳ khưu, Bhikkhu) được
tổ chức, ngày nay được gọi là Đại Hội Tăng Già I,
tại vùng đồi núi ngoại thành Rajagaha (Vương Xá). Mục
đích là để kết tập các bài kinh giảng và các điều
luật thành một hệ thống chặt chẻ hơn [4]. Chủ trì
phần Luật là Tỳ khưu Upali (Ưu Ba Ly), và chủ trì phần
Kinh là Tỳ khưu Ananda (A Nan Đà), là người cận sự với
Đức Phật và vì thế có nhiều dịp nhất để nghe và
ghi nhớ các bài giảng của Ngài. Đại hội gồm khoảng
500 vị cao tăng duyệt lại các giới luật và các bài
thuyết pháp, sắp xếp thành hai nhóm chính: Luật Tạng và
Kinh Tạng. Qua những thu thập lúc đó, Kinh Tạng được phân
chia làm 4 Bộ chính: Trường bộ, Trung bộ, Tương ưng
bộ, và Tăng Chi bộ.
Kết Tập
Lần Thứ 2
Trong 45 năm hoằng dương đạo
pháp, Đức Phật đã đi nhiều nơi, giảng đạo cho nhiều
người và kết nạp nhiều đệ tử. Các đệ tử của Ngài
ở rải rác khắp nơi, không thể nào cùng về tham dự Đại
hội đầu tiên. Do đó có thể có một số bài thuyết
giảng và giới luật phụ do Đức Phật đặt ra đã không
được kết tập trong kỳ Đại hội đó [4].
Vì vậy mà khoảng 100 năm sau, năm
383 trước CN, một đại hội kết tập kinh điển được
tổ chức, theo yêu cầu của tăng chúng thành Vesali và
Vajji [5]. Sau lần kết tập nầy, Luật Tạng được mở
rộng với các giới luật mà các đại biểu cho rằng đã
không được kết tập trong kỳ Đại Hội I, và một số
các bài kinh giảng khác chưa kết tập, tạo thành một
bộ kinh thứ 5 của Kinh Tạng (Tiểu Bộ).
Sau lần kết tập nầy, Luật
Tạng và Kinh Tạng xem như đã thành hình, và các bài
giảng có lẽ cũng giống như bài giảng mà chúng ta có
được trong bộ Đại Tạng hiện nay [4].
Kết Tập
Lần Thứ 3
Một trăm ba mươi năm sau đó, năm
253 trước CN, vua Asoka (A Dục) của Ấn Độ cho triệu
tập Đại hội lần thứ III. Tiểu Bộ của Kinh Tạng
lại được mở rộng và kết tập thêm nhiều bài kinh
giảng khác. Quan trọng hơn hết là việc Đại hội đã đúc
kết các bài giảng về tâm lý, thể tính và sự tướng
của vạn pháp, tạo thành Thắng Pháp Tạng (Abhidhamma, A
Tỳ Đàm, Vi Diệu Pháp, Luận Tạng).
Kết Tập
Lần Thứ 4
Khoảng năm 20 trước CN, 500 năm
sau ngày Phật nhập Đại Niết Bàn, vua Vattagamani của Tích
Lan (Sri Lanka) triệu tập Đại Hội Tăng Già IV tại
Aluhivihara -- gần thành phố Kandy ngày nay [1], kết tập
lại các phần Kinh, Luật, và đúc kết phần Thắng Pháp
Tạng [6]. Để gìn giữ các bài giảng của Đức Phật dù
đã kết tập nhưng chỉ truyền khẩu trong 500 năm qua, ba
tạng kinh điển được cho viết lại trên một loại
giấy bằng lá bối-đa khô [4, 10]. Từ đó Tam Tạng Pali
được thành hình, và không còn thay đổi nào khác.
Trong thời kỳ gần đây, Miến
Điện có tổ chức hai kỳ kết tập khác: kết tập lần
thứ V, năm 1870, và lần thứ VI, năm 1954. Tuy nhiên các
kỳ kết tập nầy chỉ để làm sáng tỏ các điểm chính
trong kinh, nhưng không thay đổi gì trong bộ Tam Tạng [5].
Tam Tạng Kinh
Điển
"Tạng" hay "Tàng"
là giỏ chứa, chổ chứa, tiếng Pali gọi là Pitaka. Ngày xưa
tại các chùa lớn thường có một thư viện gọi là
"Tàng Kinh Các" để lưu trữ các bộ kinh quí. Tam
Tạng theo tiếng Pali gọi là Tipitaka, Ba Giỏ Chứa (The
Three Baskets), gồm có Luật Tạng (Vinaya Pitaka), Kinh Tạng
(Sutta Pitaka), và Thắng Pháp Tạng (Abhidhamma Pitaka, còn
gọi là Vi Diệu Pháp, hay Luận Tạng). Sau đây là sơ lược
về các tạng nầy:
1. Luật Tạng
(Vinaya Pitaka)
Tạng nầy bao gồm các giới
luật và nghi lễ cho nam tu sĩ (Bhikkhu, Tỳ khưu) và nữ tu sĩ
(Bhikkhuni, Tỳ khưu ni), cách thức gia nhập tăng đoàn,
truyền giới luật, sinh hoạt tăng chúng, cách hành xử
trong các trường hợp vi phạm giới luật, vv. Tạng nầy
thường được chia làm 5 bộ [1, 7]:
1. Ba-la-di (Parajika),
2. Ba-dật-đề (Pacittiya),
3. Đại Phẩm (Mahavagga),
4. Tiểu Phẩm (Cullavagga), và
5. Toát Yếu (Parivara).
2. Kinh Tạng
(Sutta Pitaka)
Gồm 5 bộ chính (Nikaya): Trường
Bộ (Digha Nikaya), Trung Bộ (Majjhima Nikaya), Tương Ưng Bộ
(Samyutta Nikaya), Tăng Chi Bộ (Anguttara Nikaya), và Tiểu Bộ
(Khuddaka Nikaya). Trong hệ Sanskrit (Bắc Phạn), các bộ nầy
được gọi là các bộ A Hàm (Agamas). Tuy nhiên, các bộ A Hàm
nguyên thủy đã bị thất lạc và chỉ còn tìm thấy các
bản kinh tiếng Sanskrit rời rạc, mà hiện nay chỉ còn các
bộ Hán dịch từ nhiều nguồn gốc bộ phái và qua nhiều
đời khác nhau [6].
Trường Bộ là tập
hợp các bài kinh dài, gồm 34 bài kinh, đã được dịch
sang Việt ngữ, trong đó có hai quyển phổ thông nhất:
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Maha Parinibanna Sutta) và Kinh Đại
Quán Niệm (Maha Satipattana Sutta). Ngoài các bài thuyết
giảng của Đức Phật, Bộ nầy cũng có các bài giảng
của Đại Đức Sariputta (Xá Lợi Phất), vị đệ tử hàng
đầu có tài thuyết giảng hùng biện nhất thời đó, và
các vị đệ tử nỗi tiếng khác.
Trung Bộ gồm có 152
bài kinh sắp xếp trong 15 phẩm, theo từng chủ đề. Bộ
kinh nầy rất phổ thông trong giới Phật tử sử dụng Anh
ngữ và cũng đã được dịch sang Việt ngữ. Bản dịch
Anh ngữ được hiệu chỉnh nhiều lần, và bản dịch
mới nhất đã được hội Buddhist Publication Society, Tích
Lan, xuất bản năm 1995. Các bài kinh quan trọng thường có
liên quan đến phép hành thiền quán niệm (Satipattana
Sutta), chính kiến (Sammaditthi), cách tịnh tâm (Kakacupama),
cuộc đời Đức Phật (Ariyaparyesana), tứ diệu đế
(Mahahatthipadopama), không tính (Culasunnata), quán niệm hơi
thở (Anapanasati), vv... Có thể nói đây là một bộ kinh
quan trọng nhất, bao gồm các bài giảng thiết yếu trên
đường tu tập, thực hành lời Phật dạy.
Tương Ưng Bộ gồm
2,889 bài kinh ngắn, chia làm 5 chương và 56 phẩm. Đây là
tập hợp các bài kinh có chủ đề giống nhau về một điểm
thảo luận, hoặc về một nhân vật nào đó trong thời Đức
Phật. Có những bài giảng quan trọng về 12 nhân duyên và
về 37 phần bồ đề (37 phẩm trợ đạo).
Tăng Chi Bộ là bộ
kinh dựa theo cách sắp xếp số học (pháp số), từ các
chủ đề có liên quan đến 1 phần tử, 1 yếu tố, dần
dần lên đến các chủ đề có 11 phần tử hay yếu tố.
Vì vậy, bộ kinh được chia làm 11 chương, gồm 2,308 bài
kinh.
Tiểu Bộ thật ra không
phải là bộ sách nhỏ, mà là tập hợp 15 bộ sách nhỏ:
- Tiểu Tụng, Khuddaka Patha
- Pháp Cú, Dhammapada
- Phật Tự Thuyết, Udana
- Như Thị Ngữ (Phật Thuyết
Như Vậy), Itivuttaka
- Kinh Tập, Sutta Nipata
- Thiên Cung Sự, Vimana Vatthu
- Ngạ Quỷ Sự, Peta Vatthu
- Trưởng Lão Tăng Kệ,
Theragatha
- Trưởng Lão Ni Kệ, Therigatha
- Bổn Sanh, Jataka
- Nghĩa Thích, Niddesa
- Vô Ngại Giải Đạo,
Patisambhidamagga
- Thí Dụ, Apadana
- Phật Sử, Buddhavamsa
- Sở Hạnh Tạng, Cariya Pitaka
3. Thắng Pháp
Tạng (Abhidhamma Pitaka)
Còn gọi là Vi Diệu Pháp hay
Luận Tạng, đây là tập hợp các bài giảng của Đức
Phật về thể tính và sự tướng của vạn pháp, phân
giải triết học và tâm lý học. Thắng Pháp Tạng gồm có
7 quyển:
1. Pháp tụ (Dhammasangani)
2. Phân biệt (Vibhanga)
3. Giới thuyết (Dhatukatha)
4. Nhân thi thiết (Puggala Pannatti)
5. Biện giải (Kathavathu)
6. Song luận (Yamaka)
7. Nhân duyên thuyết (Patthana).
4. Các thánh
điển trọng yếu khác:
Ngoài Tam Tạng Kinh Điển còn có
các bộ Chú Giải và Phụ Chú Giải Kinh Điển, và một
số các tác phẩm Pali quan trọng khác cũng được học
tập và lưu truyền cho đến ngày nay:
Đảo sử (Dipavamsa)
Đại sử (Mahavamsa)
Tiểu sử (Culavamsa)
Mi Lan Đa vấn đạo (Milindapanha)
Thanh tịnh đạo luận (Visuddhi Magga)
Thắng pháp tập yếu luận (Abhidhammattha Sanghaha)
Đại Tạng
Việt Ngữ
Mặc dù Phật Giáo là một tôn
giáo lớn ở Việt Nam và đã có mặt lâu đời tại đất
nước ta trên 18 thế kỷ, cho đến nay chúng ta vẫn chưa có
một bộ Tam Tạng đầy đủ bằng chữ Việt. Điều nầy
đã được ghi nhận từ đầu thập niên 1950 [5], mà đã
40 năm qua, công tác dịch thuật vẫn chưa hoàn tất. Thật
ra, công trình dịch thuật sang chữ quốc ngữ từ các kinh
điển Hán tạng bắt đầu trong thập niên 1930 với nhiều
vị danh tăng và học giả trong các phong trào phục hưng
Phật Giáo và chấn hưng Phật học [11].
Một chương trình phiên dịch và
ấn hành Đại Tạng Kinh Việt Nam đã được tiến hành
trở lại từ năm 1989, dựa trên các bộ chữ Pali và chữ
Hán. Đến nay (1998), Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam
đã phát hành Trường Bộ (và Trường A Hàm), Trung Bộ (và
Trung A Hàm), Tương Ưng Bộ (và Tạp A Hàm), Tăng Chi Bộ (và
Tăng Nhất A Hàm) bằng Việt ngữ, cùng với các quyển
trong Tiểu Bộ: Kinh Tập, Pháp Cú, Như Thị Ngữ, Phật
Tự Thuyết, Trưởng Lão tăng Kệ, Trưởng Lão Ni Kệ,
Bổn Sanh, v.v.
Hệ phái Nguyên Thủy (Nam Tông)
Việt Nam đã ấn hành các bộ Vi Diệu Pháp do Hòa thượng
Tịnh Sự dịch. Bộ Luật cơ bản đã được dịch từ các
bản chữ Hán (Luật Tứ Phần Giới Bổn Như Thích, HT Hành
Trụ dịch). Các quyển Thanh Tịnh Đạo (Ni sư Trí Hải
dịch), Thắng Pháp Tập Yếu Luận (HT Minh Châu dịch) và
Mi Lan Đa Vấn Đạo (Mi Tiên Vấn Đáp, HT Giới Nghiêm
dịch) cũng đã được xuất bản trong những năm gần đây. Thêm vào đó, vào
cuối năm 2005, Tỳ khưu Indacanda đã hoàn tất công tác dịch thuật toàn
bộ Tạng Luật từ nguồn Pali.
-oOo-
Ghi chú: Toàn bộ
kinh điển Pali ngữ và bản dịch Anh ngữ đã được Hội
Kinh Điển Pali (Pali Text Society) lần lượt xuất bản trong
100 năm qua. Xin xem bài giới thiệu bằng Anh ngữ tại:
http://zencomp.com/greatwisdom/ebud/ebsut028.htm
Tham
Khảo
[1] Narada Mahathera (1980), The
Buddha and His Teachings, Buddhist Publication Society, Sri Lanka (Đức
Phật và Phật Pháp, bản dịch Việt ngữ của Phạm Kim Khánh)
[2] Thích Nhất Hạnh (1992), Đường Xưa Mây Trắng, Lá
Bối, France
[3] Sister Vijira and Francis Story (1988), The Maha Parinibbana
Sutta, Buddhist Publication Society, Sri Lanka
[4] Bodhesako (1984), Beginnings: The Pali Suttas, Buddhist
Publication Society, Sri Lanka
[5] Thích Đức Nhuận (1983), Phật Học Tinh Hoa, Phật Học
Viện Quốc Tế, USA
[6] Christmas Humprhey (1962), Buddhism, Penguin Books, UK
[7] Russell Webb (1991), An Analysis of The Pali Canon, Buddhist
Publication Society, Sri Lanka
[8] Thích Chơn Thiện (1991), Tăng Già Thời Đức Phật,
Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, Vietnam
[9] Phạm Kim Khánh (1997), Hành Hương Xứ Phật, Trung Tâm
Narada, Seatle, USA
[10] H.W. Schuman, The Historical Buddha (Đức Phật Lịch Sử,
bản dịch Việt ngữ của Trần Phương Lan, Viện Nghiên
Cứu Phật Học, Sài Gòn, 1997).
[11] Nguyễn Lang (1985), Việt Nam Phật Giáo Sử Luận, Tập
3, Lá Bối, France.
Bình
Anson,
Mùa Phật Đản 1995, Perth, Western Australia
Bổ sung: tháng 4-2006
Phụ
chú:
Kinh điển
Đại Thừa (Mahayana, Bắc Tông)
Kinh
điển Đại Thừa xuất hiện về sau nầy, vào khoảng đầu
Công nguyên (CN) -- 300 đến 700 năm sau ngày Phật nhập Đại
Niết bàn, không rõ nguồn gốc xuất xứ với nhiều giả
thuyết khác nhau, không biết do ai kết tập vào thời kỳ nào,
ban đầu là vài bộ kinh ngắn rồi dần dà xuất hiện các
bộ lớn hơn với văn phong không đồng nhất, và ngày nay cũng
không còn nguyên bản trọn vẹn. Một số đã được dịch
sang chữ Hán và chữ Tây Tạng qua nhiều thời kỳ khác nhau
bởi nhiều dịch giả thuộc những tông phái khác nhau, và
được lưu truyền đến ngày nay. Một số kinh điển Hán
tự khác thì lại không có nguồn gốc rõ ràng, mặc dù
lấy danh là lời Phật dạy nhưng có lẽ đã được trước
tác tại Trung Hoa trong thời kỳ Phật giáo mới được phát
triển tại đó.
Kinh điển Đại Thừa
là một tập hợp các bài giảng của Đức Phật, các luận
giải của tăng sĩ, và ngữ lục của các tổ sư. Ngoài
tạng Luật -- trên cơ bản rất tương tự
với tạng Luật Pali, còn có tạng Kinh gồm có
các bộ A Hàm -- dịch thuật từ nhiều nguồn khác nhau -- và
các kinh điển mới, và tạng Luận gồm các tác
phẩm chú giải và luận thuyết của các vị tăng sĩ Đại
thừa về sau nầy. Có thể nói tính đa dạng và phong phú
của kinh điển Đại thừa là kết quả của một sự dung
nạp hỗn độn, không có hệ thống và tiêu chuẩn rõ ràng,
các tài liệu về Phật giáo -- hoặc có vẻ mang tính cách
Phật giáo nhưng lại pha trộn các giáo thuyết khác -- xuất
hiện rãi rác trong các thế kỷ đầu Công nguyên trong thời
kỳ hình thành tông phái nầy.
Dưới đây là liệt kê sơ lược
danh sách kinh điển Phật Giáo Đại Thừa [a,b]:
1. Trước
thời Long Thọ (Nagarjuna, sơ tổ của Đại thừa Phật giáo,
thế kỷ III CN):
Kinh Đại phẩm Bát Nhã
Kinh Tiểu phẩm Bát Nhã
Kinh Diệu Pháp Liên Hoa
Kinh Hoa Nghiêm
Kinh Đại Vô Lượng Thọ
Kinh Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội
Kinh Duy Ma Cật
Trước tác của Ngài Mã Minh
(Asvaghosa, đầu Công nguyên):
Phật sở hạnh tán
Đại Trang Nghiêm luận
Thập Bất thiện nghiệp đạo
Lục thú luân hồi
Sự sư pháp Ngũ thập tụng
Ni Kiền Tử vấn vô ngã nghĩa
Đại tôn địa huyền văn bản luận
Đại Thừa khởi tín luận
2. Thời Long
Thọ (Nagarjuna), Đề Bà (Deva), Bạt Đà La (Bhadra):
2.1 Ngài Long Thọ trước tác
nhiều bộ luận, nhưng dịch sang Hán gồm:
Trung quán luận
Bồ đề tâm ly tướng luận
Thập nhị môn luận
Hồi tránh luận
Đại trí độ luận
Phương tiện tâm luận
Thập trụ Tỳ Bà Sa luận
Khuyến phát chư vương yếu kệ
Thập bát Không luận
Tán pháp giới tụng
Đại thừa phá hữu luận
Quảng đại phát nguyện tụng
Bồ đề tư lương luận
2.2 Ngài Đề Bà trước tác:
Bách luận
Bách tự luận
Quảng bách luận
2.3 Ngài Bạt Đà La trước tác:
Chú thích Trung luận
3. Sau thời
Long Thọ:
Kinh Thắng Man
Kinh Giải Thâm Mật
Kinh Đại Bát Niết Bàn (Đại thừa Niết Bàn)
Kinh Lăng Già
4. Thời Vô Trước
(Asanga, thế kỷ IV-V CN):
4.1 Trước tác của Ngài Di Lặc
(Maitreya):
Du Già Sư Địa luận
Đại Thừa Trang nghiêm kinh luận
Thập địa kinh luận
Trung biên phân biệt luận
4.2 Trước tác của Ngài Vô Trước
(Asanga):
Hiển dương Thánh giáo luận
Kim Cang Bát nhã Ba la mật đa kinh luận
Nhiếp Đại thừa luận
Thuận Trung luận
Đại Thừa A Tỳ Đạt Ma tạp luận
4.3 Trước tác của Ngài Thế Thân
(Vasubandhu) thì rất nhiều, nhưng các bộ sau đây đã
dịch sang Hán:
A Tỳ Đạt Ma Câu Xá luận
Nhiếp Đại Thừa luận thích
A Tỳ Đạt Ma Câu Xá bản tụng
Thập địa kinh luận
Duy thức Tam thập tụng
Diệu Pháp Liên Hoa kinh Ưu Bà Đề Xá
Duy thức Nhị thập tụng
Vô Lượng Thọ kinh Ưu Bà Đề Xá
Đại Thừa Bách pháp Minh môn luận
Chuyển Pháp luân Ưu Bà Đề Xá
Đại Thừa Ngũ uẩn luận
Kim Cương Bái nhã Ba la mật kinh luận
Phật tính luận
Lục môn giáo thọ tập định luận
(Bình
Anson, tháng 12-1998)
[a] Giác Ngộ, số 126,
tháng 08-1998.
[b] Thích Thanh Kiểm, 1995. Lược sử Phật giáo Ấn độ.