Ngài trở
lại học đường và lấy thêm bằng cử nhân văn chương tại Ðại
học Berkeley (California). Năm 1963, sau một thời gian
làm việc trong Hội Hồng Thập Tự, Ngài đã bỏ sang Viễn
Ðông và đứng lớp dạy Anh văn suốt hai năm trời tại Borneo
như một công tác từ thiện.
Lòng ái mộ Phật Giáo đã đưa Ngài sang viếng Thái Lan
năm 1966. Chính tại đây Ngài đã tu sa-di ở chùa Nong Khai
rồi một năm sau đó (1976) lại thọ giới Tỳ kheo với Hòa thượng Chao
Khun Rajapreejayamuni. Và năm 1968, gặp được thiền sư Ajahn
Chah, người mà sau này Ngài sẽ theo học thiền mười năm.
Vào năm 1974, sau một chuyến hành hương Ấn Ðộ với tư cách
một vị trì hạnh Ðầu Ðà, Ngài trở về Thái Lan và được
giúp đỡ xây dựng thiền viện Nanajat rồi trở thành viện
chủ ở đó, dù vẫn tiếp tục học hỏi với Ngài Ajahn Chah.
Năm 1977 nhận được lời mời của giáo hội Phật giáo Anh
Quốc, thiền sư Ajahn Chah đã dẫn theo Ngài Sumedho rồi để
Ngài lại chùa Hampstead ở Luân Ðôn để coi sóc một số tăng chúng
tại đây. Năm 1979 chư tăng Anh quốc tìm thêm được một cơ sở
hoằng pháp tại Sussex và thế là tu viện Chithurst ra đời.
Ðến năm 1984, vẫn dưới sự điều hành của Ngài Sumedho
cũng với một khí thế sôi động, trung tâm Phật Giáo
Amaravati lại được thành lập, nằm ngay sát Luân Ðôn. Sau
đó từ miền Bắc đến Tây Nam Anh quốc rồi cả Thụy Sĩ, Tân
Tây Lan, Úc châu đều lần lượt có chi nhánh lan rộng của hệ
thống hoằng pháp do giáo hội Phật Giáo Anh quốc tổ chức.
Bài giảng sau đây là một trong hai bài giảng đầu tiên
của Ngài Sumedho tại trung tâm Amaravati nói trên vào mùa
đông năm 1988.
Con Ðường Như Thật
Hôm nay là ngày trăng tròn tháng giêng mà cũng có
nghĩa là chúng ta đang bắt đầu bước vào thời gian cấm túc tu
tập mùa đông. Có cả một đêm dài để thiền định thế này quả là một
cơ hội tuyệt vời và càng may mắn hơn nữa là kể từ bây giờ
chúng ta còn có đến hai tháng trời để sống hết mình theo
Phật Pháp.
Giáo lý của Ðức Phật dạy ta hãy biết nhắm tới sự hiểu
biết về tiến trình sinh hóa của vạn pháp một cách như thật.
Nói cách khác, Ðức Phật chỉ đề nghị chúng ta hai khả năng thôi:
Biết nhìn ngắm và tỉnh thức. Hai khả năng này thật ra chính là
nội dung của con đường Bát Chánh Ðạo. Thực hiện đạo lộ
này là một công phu phát triển trí tuệ giải thoát. Tiếng
Pàli gọi là Bhàvanà, ta có thể tạm dịch là "Tu tiến".
Cũng là nhìn ngắm vạn vật nhưng nhìn chúng theo đúng
bản chất tự nhiên của chúng thì ta sẽ có được cái Thấy tốt
hơn so với cái nhìn xuyên qua một lăng kính ngã chấp. Cái trợ lực
lớn nhất cho trí tuệ của tất cả chúng ta chính là niềm tin mù
quáng vào cái Tôi, từ niềm tin này ta bắt đầu nghĩ tới
việc ôm ấp nó. Cái Tôi đối với chúng ta lúc này đã trở
nên hết sức cần thiết chẳng khác gì nước đối với cá. Nước
chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống của các loài
cá trong khi chính chúng cũng không nhận ra điều này.
Chúng ta đâu có khác gì lũ cá đó. Chúng ta đã nhắm mắt
bơi lội trong cái thế giới cảm quan dưới sự chi phối của
Ngã chấp ngay từ những ngày đầu đời. Nếu không có một chút thời
gian nào để khám phá bản chất của sự hiện hữu thì có lẽ mãi cho
tới lúc qua đời, chúng ta cũng không biết được gì hơn,
ngoài một nếp sống bản năng!
Có điều là tất cả chúng ta ở đây đều không phải là
những con cá. Chúng ta là con người. Chúng ta có thể xem xét
lại vùng nước mà mình vẫn bơi lội trong đó. Chúng ta có thể quan
sát thế giới cảm quan của mình một cách như thật. Ðừng cố
gắng chối bỏ hay củng cố nó, mà đổi lại, phải luôn tỉnh
thức trước nó. Nói vậy có nghĩa là chúng ta không tiếp
tục tự mê hoặc chính mình bằng bất cứ sự cố nào, bất luận
là những gì đáng sợ, đáng yêu, nói chung là tất cả cái
gì ta tự tạo ra trong tâm thức chính mình.
Ðiều tôi muốn nói ở đây là chúng ta hãy cùng tham khảo
một định đề hay cũng có thể gọi là một Công Án: Nó là Nó.
Nếu các bạn đi hỏi một người đang bơi dưới nước rằng nước giống
cái gì, thì tôi nghĩ rằng tốt nhất người đó chỉ nên đơn giản
nhìn xuống mặt nước rồi trả lời rằng Nó là như vậy đấy.
Nếu được hỏi thêm nữa về nhiệt độ của nước, cảm giác ngâm
mình trong nước ... thì ai cũng có thể trả lời nhưng để
tìm một cái gì đó tương đương để diễn tả thì gay đấy. Bởi
nước chỉ là nước, là như vậy thôi.
Thế giới của chúng ta cũng thế. Nó là Nó, và chúng ta
hãy nhận biết nó. Nó ra sao thì ra, buồn hay vui cũng mặc,
kể cả trường hợp nó trở nên vô vị, tẻ nhạt. Nhưng trước sau gì Nó
vẫn là Nó. Mọi thứ luôn đến rồi đi vô chừng vô đổi, không hề
có một cái gì khả dĩ toàn bích và chắc chắn để ta có thể
bám víu, lệ thuộc cả. Toàn bộ đời sống cảm quan của chúng
ta chỉ là những năng lượng luôn chuyển đổi và xê dịch.
Tất cả trôi chảy không ngừng, kể cả tâm thức của chúng ta
cũng thế.
Bây giờ thì chúng ta đừng bận lòng quá nhiều về đời
sống nữa. Chúng ta chẳng nên bàn chi tới cái Ðẹp, Xấu, dễ yêu
hay đáng ghét của nó. Chỉ nên nhìn ngắm thôi. Ðúng, chúng ta chỉ
việc chú ý quan sát đời sống, quan sát vùng nước mà mình
đang bơi lội. Ðời sống cảm quan của chúng ta thực ra chỉ
là cái thế giới của những cảm giác chúng ta sinh ra trong
đó và cảm nhận. Ngay từ lúc vừa lọt lòng mẹ, chúng ta đã
là một sinh thể độc lập để một mình cảm nhận trọn vẹn
những nóng, lạnh, đói, khát, buồn, vui ... Rồi khi lớn
lên, thế giới cảm xúc của chúng ta càng rắc rối hơn nữa.
Ngũ quan chưa đủ, chúng ta còn sống bằng cả những ý thức để
suy nghĩ, ghi nhớ, quan niệm ... Tất cả đều là cảm giác. Chúng có
thể là những niềm vui, những kinh ngạc mà cũng có thể là
những áp lực, giằng xé. Tất cả những xúc tác đó của đời
sống cảm quan chỉ đơn giản là vậy. Chúng là chúng. Ðau
khổ là đau khổ và hạnh phúc là hạnh phúc. Cả xả thọ cũng
vậy.
Ðể có thể soi rọi đúng đắn những thứ này, ta chỉ có
mỗi con đường duy nhất là tỉnh thức để tập trung chú ý. Có
thể có ai đó trong pháp hội này muốn đề nghị tôi hãy chỉ rõ cho họ
cách thức cảm nhận đời sống. Tôi xin nhấn mạnh rằng điều cần
thiết không phải là chúng ta phải NÓI về đời sống, mà
thay vào đó, chúng ta chỉ nên SỐNG phơi mở và đón nhận nó
đúng như nó mà thôi. Chúng ta không cần thiết phải nói
cho ai đó nghe về chân lý trong khi họ có thể tự mình
khám phá ra nó. Hai tháng cấm túc này là một cơ hội tốt
để chúng ta tự thực hiện những cuộc khám phá và cho dầu không
thể thành tựu được trọn vẹn những gì tôi vừa nói, thì đối với một
số người sau một thời gian công phu như vậy, tôi tin rằng
việc phát triển ít nhiều trí tuệ chắc chắn là điều có thể
thực hiện.
Ở đây tôi lại muốn định nghĩa về tiếng Trí Tuệ mà mình
vừa nhắc tới. Từ sanh đến tử là một hành trình như thật.
Trên hành trình đó, cái thường trực nhất vẫn là những đau đớn, bất
toại, phiền muộn, chán nản. Nếu chúng ta không nhận diện
chính xác Chúng là Chúng, là những pháp giới, pháp tánh
thì coi như chúng ta đã tự đặt vấn đề với chúng, quan
trọng hóa đối với chúng. Khoảng cách giữa Sinh và Tử lúc
này đã được thiết lập và thành ra cái gì đó mang tính ngã
thể chứa đầy những thành kiến như sợ hãi, ham muốn.
Chúng ta thường đau khổ vì mặc cảm cô đơn nên dù sống
giữa một cộng đồng tập thể cũng vậy. Và như thế thì cuộc
sống của mỗi người là một cố gắng để mình khỏi phải cô đơn nữa. Ta
muốn cùng người khác chuyện trò, sinh hoạt cho bớt đi cảm giác
lẻ loi. Nhưng phải nhận rằng mục đích đó của chúng ta
xem ra không thể nào đạt tới. Chúng ta mãi cô đơn, thực
sự cô đơn ngay trong chính hình hài này của mình. Chúng
ta có thể lập nhóm hoặc cùng tham dự sinh hoạt với người
khác nhưng chỉ có chừng đó thôi, đến mức độ đó thôi. Bước
vào thế giới cảm nghiệm thực sự về đời sống, ta sẽ thấy
rằng mình vẫn rất cô đơn, niềm cô đơn không cùng và toàn
diện. Việc tìm kiếm một người giúp mình thoát khỏi niềm cô
đơn quả là một vọng tưởng.
Khi đứng cạnh một sinh thể vật lý nào đó, ta hãy chú ý
ghi nhận tại sao mình vẫn mãi là một cái gì cách biệt
với chung quanh. Có phải ta đã chưa có một cộng hưởng cụ thể nào
với nhau? Phải nói rằng càng nghĩ nhiều về tấm thân này, ta sẽ
càng cảm thấy cô đơn hơn, dễ bị xúc phạm hơn. Rồi từ đó ta
lại cố tách mình để cô đơn hơn và tự tạo một thế giới
riêng tư để sống. Kết cuộc, chúng ta chỉ được toàn những
thứ buồn cười và chua chát: Ðó là những tình bạn qua
đường đầy hình thức, rồi là những kẻ thù và tất cả những
thứ đó sau một quá trình đến, đi, bắt đầu, kết thúc cũng
chỉ còn lại một con số không. Mọi cái đều sinh ra và mất
đi ngay trong chính tâm hồn chúng ta. Trách nhiệm của chúng ta là
nhận ra tính kế thừa nhân quả của Sinh và Tử, bắt đầu và kết
thúc ...
Trong mùa cấm túc này, chúng ta sẽ cùng giải quyết một
công án thôi, đó là những gì đang sinh ra, đang xuất
hiện. Và ngay bây giờ, chúng ta sẽ bắt đầu tham án với những ghi
nhận sau đây: Ðây là bản thân của tự Sanh, đây là hình hài vật
lý, Nó chính là ý thức, là cảm giác, là tri thức, là hồi
ức, là những vận động ... Tất cả đều là những công án
thiền định vì chúng đều là những đối tượng tri nhận của ý
thức, là những pháp giới, pháp tánh. Nếu chúng ta còn cố
xem xác thân này là một đối tượng để quan niệm về nó
bằng những định kiến Ngã chấp "Tôi, của Tôi" thì chắc
chắn chúng ta sẽ cảm thấy cô đơn và thất vọng, bởi cái gì
cũng đang trên đường đi đến chia cắt và phân hủy nên một sự bám
víu vào phù du nào cũng chỉ đem lại cho ta những sợ hãi và mù
quáng. Từ đó chúng ta luôn dễ dàng cảm thấy bất an kể cả
những lúc thật ra chẳng có gì đáng ngại. Như vậy, cho tới
khi nào Vô Minh còn che án bản chất các pháp thì cho đến
lúc ấy tâm hồn ta cũng sẽ tiếp tục bị đè nặng bởi những
âu lo.
Nhưng ở đây ta phải hiểu thêm rằng tất cả những cực
lòng đó đều là những ảo tưởng do chính chúng ta tự tạo ra thôi.
Âu lo chỉ đơn giản là một tâm trạng bị chất nặng, thái quá. Tất
cả những thứ được gọi là tình yêu, hạnh phúc trên đời này
luôn phản bội lại chúng ta khi ta cố tình đầu tư chúng.
Tìm kiếm chúng chỉ có nghĩa là đi tìm những thứ đổ nát
hoang tàn thôi. Ðó là lý do tại sao Pháp môn Thiền Quán
dạy ta phải biết chối từ tất cả cảm giác hưởng thụ,
thưởng thức. Khước từ vì hiểu được chúng thật ra là những
gì, ta không tiếp tục tìm đến chúng nữa. Chúng chỉ là
Chúng. Chúng xuất hiện rồi tan biến đi và không hề là một bản ngã
nào hết. Ðó là tinh thần của pháp môn Thiền Quán.
Còn đứng trên lập trường văn hóa Tây phương của chúng
ta thì vấn đề sẽ ra sao? Môi trường xã hội gần như đã buộc
ta phải luôn luôn quan niệm về cái Tôi, cái của Tôi trên mọi thứ,
từ tâm sinh lý bản thân đến quan hệ gia đình và vị trí xã
hội. Chúng ta đừng quán tưởng về Vô Ngã bằng những câu
nói công án hay những lời kinh nghiệm về tánh Không mà
thay vào đó, ta nên trung thực khám phá xem tại mình bị
cuốn hút mãnh liệt vào niềm hi vọng về một cái Tôi đến
thế. Và đời sống này lạ lắm, như tôi đã nói, ta càng mơn
trớn nó, nó sẽ càng có vẻ đối lập, kình chống chúng ta.
Lúc này nó cứ giống một mảnh sứ vỡ hay một viên gạch cứng càng nắm
chặt nó, bàn tay ta chỉ đau đớn thêm thôi. Tất cả những phức
loạn, giằng xé đều đến với ta bằng con đường của quan
niệm về cái Tôi. Và cái Tôi hư tưởng đó gần như thường
xuyên mang lại cho Ta những thất vọng, sợ hãi. Và đời
sống đối với chúng ta bây giờ còn tồi tệ hơn cả chính bản
chất thực sự của nó nữa!
Trong khi đó, chỉ bằng một công phu quan sát khách
quan về tất cả những gì Ðang ... là, Ðang có mặt, thì mọi sự
sẽ ổn cả. Những cái thú vị, tươi đẹp, khoái cảm đều chỉ là cái gì
chúng Ðang là. Những đau đớn, bất toại, bệnh hoạn cũng chỉ
là những thứ Ðang xảy ra. Chúng ta có thể thường trực
nhìn thẳng vào hành trình luôn được tiếp diễn và đổi thay
của đời sống. Hãy nhớ rằng tâm thức của một người liễu
đạo luôn nhạy bén và chính xác, còn đối với kẻ hãy còn
quá nhiều vô minh thì tâm hồn luôn bị động và tù hãm.
Chúng ta luôn tự làm khổ mình bằng những chấp thủ.
Thái độ quan trọng hóa bản thân, tức nghĩ về mình nhiều quá
chỉ khiến đời sống mỗi người thêm khó khăn. Kể cả một ý thức về
dân tộc, tín ngưỡng cũng thế, cái gì ta ôm ấp cũng đều đem lại
cho ta những cực lòng, thất vọng. Tất cả định kiến hay
quan niệm, lập trường dù có như thế nào cũng chỉ là những
sản phẩm tật nguyền của ý thức. Chúng ta có thể là nhân
tố sinh tồn cho một tổ chức cộng đồng nhưng chỉ có chừng
ấy ý nghĩa thôi, ngoài ra chúng chẳng là cái gì cả. Kinh
điển gọi đó là cái Chế định, Tục đế, Giả lập (Sammuti
dhamma). Cái tên gọi là Sumedho chỉ là một sản phẩm, một sáng tác
có giá trị nhất thời trong một thời gian nhất định nào đó. Màu
áo tu sĩ hay hình dạng một con người, tất cả cũng đều là
những thứ giả lập. Chúng trước sau chỉ là Chúng. Chấp thủ
những thứ đó, tâm hồn chúng ta càng bị giới hạn và tù
đày. Nó chỉ là một mảnh sứ vỡ, trong khi chúng ta thì cứ
mù lòa trong những ảo tưởng.
Muốn vượt thoát ảo tưởng, ta đâu cần vất bỏ chúng một
cách trẻ con, theo cách hiểu trẻ con. Ðể thực hiện công
phu đó, tôi không cần thiết phải tự sát hay hoàn tục bởi thật ra
tất cả ảo tưởng đều không có gì để nói cả. Chúng sẽ chẳng quấy
rầy ta nếu ta hiểu được chúng là gì. Ảo tưởng là ảo
tưởng, thế thôi, và chúng đi ra từ khái niệm không gian
và thời gian, chỉ có vậy.
Cứu cánh Níp Bàn, tức cái tự do hay giải thoát thật sự
chỉ có thể đạt đến bằng một sự nhận thức toàn triệt về nội
dung rốt ráo của các pháp. Từ chuyên môn trong Phật học gọi là
Paramatthasacca tức bản chất rốt ráo của vạn sự, vạn vật (Chơn
đế). Giải thoát ở đây có nghĩa là chúng ta không còn ham
muốn và sợ hãi nữa, một sự giải thoát vượt ngoài mọi ảo
tưởng, một sự giải thoát mang ý nghĩa bất tử vĩnh viễn.
Nhưng để có được sự giải thoát này, trí tuệ này, ta phải
thấy được bản chất như thật của lòng ham muốn để xem nó
nhắm tới cái gì. Ta đồng thời phải hiểu ý nghĩa của sự
đau khổ, hiểu được hành trình nào đã dẫn tới sự ngộ nhận về một
cái Tôi. Chúng ta phải tự giải đáp tất cả những vấn đề này, không
thông qua trung gian nào hết để không mắc phải ngộ nhận.
Hãy nhớ, ngay chính ý muốn đi tìm quan niệm Vô Ngã cũng
có thể là một Ngã chấp trá hình. Vấn đề ở đây không phải
là xác định hay phủ nhận mà là một sự nhận chân, một sự
nhìn thấy đúng đắn. Ta phải thực hiện công phu này bằng
tất cả chánh niệm!
Với Chánh Niệm, chúng ta có thể mở ra toàn bộ những
khuất lấp của thực tại. Chúng ta sẽ dành trọn hai tháng cấm
túc này để phơi mở mọi thứ bằng tất cả khả năng chánh niệm: Khỏe,
mệt, toại nguyện, thất vọng, hạnh phúc và đau khổ, thậm chí
giác ngộ và thua cuộc. Chúng ta đừng mất thời giờ cho
những suy nghĩ vớ vẩn, chẳng hạn ao ước một điều gì đó sẽ
xảy đến cho mình, kể cả một sự hy vọng nông nổi vào
những thành quả tu tập mà mình mong mỏi đạt được trong
mùa cấm túc này. Tự bản thân những tư tưởng đó đã là một
khổ lụy. Và thay vào đó, ta chỉ việc tập trung tất cả khả
năng dù có khó khăn đến mấy đi nữa. Hãy thực hiện điều này một
cách đầy ý thức và như vậy, bất cứ chuyện gì xảy ra trong hai
tháng sắp tới cũng sẽ là một phần thành quả cho công phu của
chúng ta. Hãy nhớ, ngay từ bây giờ, công án thiền định
của chúng ta chỉ là sự Hiện Hữu Như Thật của mọi thực
tại, bất kể nó là cái gì. Nói chung, công án của chúng ta
là mọi sự, mọi vật.
Ði đúng con đường đó, đến cả những thất vọng và đau
khổ cũng có thể đem lại cho ta sự tĩnh lặng và an bình của
Thiền định. Hồi còn ở Thái Lan, tôi cũng đã có dịp đi qua bài học
này với một loạt những trở lực hoàn toàn bất lợi cho mình lúc
đó: Những cảm giác cô đơn, lẻ loi, bồn chồn, nghi hoặc,
âu lo, thất vọng. Chạy trốn chúng, chúng càng theo đuổi.
Ðón nhận chúng, chúng biến mất. Và điều dĩ nhiên là một
khi ta đã dám chấp nhận tận cùng mọi thứ thì còn có gì để
ta phải chối bỏ nữa!
Phải nói rằng con đường mà Pháp môn Thiền quán đề nghị
chúng ta dấn bước quả là hết sức tế nhị và sâu thẳm. Nó
không phải sâu thẳm và tế nhị ở hình ảnh cảm nghiệm bởi đề tài
nhìn ngắm của Thiền Quán luôn là ở Ðây và Lúc Này. Nó bình thường
thôi, như nước đối với cá và chính vì vậy ta không nhận
ra nó. Như đã nói, nước là môi trường sống của cá nhưng
con cá đâu có hay biết điều đó cho dù nó đang bơi trong
nước. Thế giới hiện hữu của chúng ta chỉ có ở Ðây và Bây
Giờ, không phải ở đâu xa xôi nhưng nó chính là cái để ta
phải chú ý nhìn ngắm, bằng một chánh niệm song hành với
trí tuệ.
Hãy tập trung chú ý vào con đường sinh hóa của mọi sự.
Chúng ra sao thì thấy như vậy. Một cơn tức giận đang bừng
dậy à? Chẳng sao cả, chúng ta vẫn đang theo sát nó kia mà!
Hãy nhớ rằng không phải chúng ta đang cố gắng Ðể Trở
Thành một ông thánh hay một cao nhân nào cả. Chúng ta cũng
không nổ lực Ðể Tống Khứ một ác pháp nào hết. Hãy sống hồn nhiên
và thoải mái. Cảnh giới nội tâm của chúng ta Là Như Vậy. Nó có
thể là bất tịnh hay trong sáng và đó là một cặp hành
trạng đối đãi nhau của ý thức. Thấy rõ Chúng như là
Chúng, thấy rõ Chúng luôn vô thường, vô ngã thì đó chính
là trí tuệ vậy. Trong khi đó, bằng một ý thức ngã chấp,
chúng ta cố gắng mong mỏi "Tôi sẽ phát triển những gì
thanh tịnh, tống khứ những gì không thanh tịnh " thì lập
tức cái không thanh tịnh sẽ xuất hiện và kềm hãm chúng ta. Chúng
ta lại vấp vào khối đá thất vọng trên đường đi của mình, thế là
tiếp tục đau khổ. Hãy cẩn trọng với hai tháng cấm túc
này. Vô minh luôn sẵn sàng khiến cho chúng ta tự chuốc
lấy những khổ lụy.
Như vậy, trong một nội tâm đầy chánh niệm, tất cả hạnh
phúc và khổ đau đều đồng giá trị. Không có gì khác biệt
giữa hai thực tại này hết. Cái nào cũng là Ðang Là, xuất hiện rồi
biến mất. Hạnh phúc vẫn là Hạnh phúc, Ðau khổ cũng cứ là Ðau
khổ. Chúng là cái Chúng Là. Chúng vô ngã và chỉ có vậy.
Chúng ta đừng để mình phải đau khổ vì chúng. Chỉ việc đón
nhận, nhìn mặt và hiểu biết chúng. Tất cả cái gì có mặt
đều phải có lúc biến mất. Tất cả đều vô ngã!
Tôi xin gởi đến pháp hội bài nói chuyện này như một công án để các vị tham chiếu.