Đức Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát
Một
buổi sáng, vào lúc thanh trai, Pháp Chiếu Đại sư thấy trong bát cháo ở
Tăng đường, hiện rõ bóng mây ngũ sắc. Trong mây hiện ra cảnh sơn tự,
phía Ðông Bắc chùa có dãy núi, chân núi có khe nước. Phía Bắc khe nước
có cửa ngõ bằng đá. Trong ngõ đá lại có một ngôi chùa to, biển đề “Ðại
Thánh Trúc Lâm Tự”. Mấy hôm sau, ngài lại thấy nơi bát cháo hiện rõ cảnh
chùa lớn ấy, gồm vườn ao, lâu đài tráng lệ nguy nga, và một vạn vị Bồ
tát ở trong đó.
Ngài
đem cảnh tượng ấy hỏi các bậc tri thức. Một vị cao Tăng bảo: “Sự biến
hiện của chư Thánh khó nghĩ bàn được. Nhưng nếu luận về địa thế non
sông, thì đó là cảnh Ngũ Ðài Sơn”. Nghe lời ấy ngài có ý muốn đến viếng
Ngũ Ðài thử xem sự thật ra thế nào?
Năm
Ðại Lịch thứ tư, Ðại sư mở đạo tràng niệm Phật tại chùa Hồ Ðông. Ngày
khai hội cảm mây lành giăng che chốn đạo tràng. Trong mây hiện ra cung
điện lầu các. Phật A Di Ðà cùng hai vị Bồ tát Quán Âm, Thế Chí hiện thân
vàng sáng chói cả hư không. Khắp thành Hoành Châu, bá tính trông thấy
đều đặt bàn đốt hương đảnh lễ. Cảnh tượng ấy hiện ra giây lâu mới ẩn
mất. Do điềm lành này, rất nhiều người phát tâm tinh tấn niệm Phật. Ðạo
tràng khai liên tiếp được năm hội.
Một
hôm, Ðại sư gặp cụ già bảo: “Ông từng có ý niệm muốn đến Kim Sắc thế
giới tại Ngũ Ðài Sơn để đảnh lễ đức Ðại Thánh Văn Thù sao đến nay vẫn
chưa thật hành ý nguyện?” Nói xong liền ẩn mất. Ðược sự nhắc nhở, ngài
sửa soạn hành trang, cùng với mấy pháp hữu, đồng đến viếng Ngũ Ðài.
Năm
Ðại Lịch thứ năm, vào mùng sáu tháng tư, Ðại sư cùng đồng bạn mới đến
chùa Phật Quang ở huyện Ngũ Ðài. Ðêm ấy, vào khoảng canh tư, ngài thấy
ánh sáng lạ từ xa chiếu đến thân mình, liền nhắm phỏng chừng tia sáng mà
theo dõi. Ði được năm mươi dặm thì đến một dãy núi, dưới chân núi có
khe nước, phía Bắc khe có cửa cổng bằng đá. Nơi cửa có hai vị đồng tử
đứng đón chờ, tự xưng là Thiện Tài và Nan Ðà. Theo chân hai đồng tử dẫn
đường, ngài đến một ngôi chùa nguy nga, biển đề: “Ðại Thánh Trúc Lâm
Tự”. Nơi đây đất vàng, cây báu, ao sen, lầu các rất kỳ diễn, trang
nghiêm. Cảnh giới quả đúng như ảnh tượng đã thấy nơi bát cháo khi trước.
Ngài
vào chùa, lên giảng đường, thấy đức Văn Thù bên Tây, đức Phổ Hiền bên
Ðông. Hai vị đều ngồi tòa sư tử báu cao đẹp, đang thuyết pháp cho một
muôn vị Bồ tát ngồi phía dưới lặng lẽ lắng nghe. Pháp Chiếu bước đến chí
thành đảnh lễ, rồi quỳ xuống thưa rằng: “Kính bạch Ðại Thánh! Hàng phàm
phu đời mạt pháp, cách Phật đã xa, chướng nặng nghiệp sâu, tri thức kém
hẹp, tuy có Phật tính mà không biết làm sao hiển lộ. Giáo pháp của Phật
lại quá rộng rãi mênh mông, chưa rõ pháp môn nào thiết yếu dễ tu hành
cho mau được giải thoát?”
-
Thời kỳ này chính là đúng lúc các ngươi nên niệm Phật. Trong các hành
môn không chi hơn niệm Phật và gồm tu phước huệ. Thủa đời quá khứ, ta
nhờ quán Phật, niệm Phật, cúng dường Tam bảo mà được Nhất Thiết Chủng
Trí. Tất cả các pháp như: Bát-nhã Ba-la-mật, những môn thiền định rộng
sâu, cho đến chư Phật cũng từ niệm Phật mà sinh. Vì thế nên biết, Niệm
Phật là vua trong các pháp môn”.
- Bạch Ðại thánh! Nên niệm như thế nào?
-
Về phương Tây của thế giới này, có Phật A Di Ðà giáo chủ cõi Cực Lạc.
Ðức Thế tôn đó nguyện lực không thể nghĩ bàn! Ngươi nên chuyên niệm danh
hiệu của Ngài nối tiếp không gián đoạn thì khi mạng chung, quyết được
vãng sinh, chẳng còn bị thối chuyển.
Nói xong, hai vị Ðại thánh đồng đưa tay vàng xoa đầu ngài Pháp Chiếu và bảo rằng:
-
Do ngươi niệm Phật, nên không lâu sẽ chứng được quả Vô thượng Bồ đề.
Nếu thiện nam tín nữ nào muốn mau thành Phật thì không chi hơn niệm
Phật. Kẻ ấy nhất định sẽ mau lên ngôi Chính Ðẳng Chính Giác.
Ðược hai vị Ðại thánh thọ ký xong ngài Pháp Chiếu vui mừng đảnh lễ rồi từ tạ lui ra.
Hai
đồng tử khi nãy theo sau tiễn đưa. Vừa ra khỏi cổng, ngài quay lại thì
người và cảnh đều biến mất. Ngài liền dựng đá đánh dấu chỗ ấy, rồi trở
về chùa Phật Quang.
Ðến
ngày 13 tháng 4, Pháp Chiếu đại sư cùng hơn năm mươi vị Tăng đồng đến
hang Kim Cang, thành tâm đảnh lễ hồng danh ba mươi lăm đức Phật. Vừa lạy
được mười lượt, ngài bỗng thấy hang Kim Cang rộng lớn thanh tịnh trang
nghiêm có cung điện bằng lưu ly, đức Văn Thù, Phổ Hiền đồng ngự trong
ấy. Hôm khác, ngài lại đi riêng đến hang Kim Cang, gieo mình đảnh lễ,
nguyện thấy Ðại thánh. Ðang khi lạy xuống vừa ngước lên, Ðại sư bỗng
thấy một Phạm Tăng tự xưng là Phật Ðà Ba Lỵ. Vị này đưa ngài vào một đại
điện trang nghiêm, biển đề là Kim Cang Bát Nhã Tự. Toàn điện nhiều thứ
báu lạ đẹp mầu, ánh sánh lấp lánh. Dù đã nhiều lần thấy sự linh dị,
nhưng ngài vẫn chưa thuật lại với ai cả.
Tháng
Chạp năm ấy, ngài nhập đạo tràng niệm Phật nơi chùa Hoa Nghiêm định kỳ
tuyệt thực tu hành, nguyện vãng sinh về Tịnh độ. Ðêm đầu hôm, ngày thứ
bảy, đang lúc niệm Phật, đại sư bỗng thấy một vị Phạm Tăng bước vào bảo:
“Ông đã thấy cảnh giới ở Ngũ Ðài Sơn, sao không truyền thuật cho người
đời cùng được biết?” Nói xong, liền ẩn mất.
Hôm
sau, trong lúc niệm Phật, vị Phạm Tăng hiện ra, bảo y như trước. Ngài
đáp: “Không phải tôi dám giấu kín thánh tích, nhưng chỉ sợ nói ra người
đời không tin sanh sự chê bai mà thôi”. Phạm Tăng bảo: “Chính đức Ðại
Thánh Văn Thù hiện tại ở núi này, mà còn bị người đời hủy báng thì ông
còn lo ngại làm chi? Hãy đem những cảnh giới mà ông được thấy truyền
thuật với chúng sanh, làm duyên cho kẻ được nghe biết, phát khởi tâm Bồ
Ðề”. Ngài tuân lời, nhớ kỹ lại những sự việc đã thấy, rồi ghi chép ra
truyền lại cho mọi người.
Năm
sau, sư Thích Huệ Tùy ở Giang Ðông cùng với chư Tăng chùa Hoa Nghiêm
theo Pháp Chiếu đại sư đến hang Kim Cang lễ Phật. Kế đó, lại đến chỗ
dựng đá lúc trước để chiêm ngưỡng dấu cũ. Ðại chúng còn đang ngậm ngùi
ngưỡng vọng, bỗng đồng nghe tiếng hồng chung từ vách đá vang ra. Giọng
chuông thanh thoát, ngân nga, nhặt khoan rành rẽ. Ai nấy đều kinh lạ,
đồng công nhận những lời thuật của ngài Pháp Chiếu là đúng sự thật. Vì
muốn cho người viếng cảnh đều phát đạo tâm, Tăng chúng nhân cơ duyên ấy
khắc những sự việc của ngài nghe thấy vào vách đá. Về sau ngay nơi đó,
một cảnh chùa trang nghiêm được dựng lên, vẫn lấy hiệu là Trúc Lâm Tự để
lưu niệm.
Triều
vua Ðức Tông, Pháp Chiếu đại sư mở đạo tràng niệm Phật tại Tinh Châu,
cũng liên tiếp được năm hội. Mỗi đêm vua và người trong cung nghe tiếng
niệm Phật rất thanh thoát từ xa đưa vẳng lại. Sau khi cho người dò tìm,
được biết đó là tiếng niệm Phật ở đạo tràng tại Tinh Châu, nhà vua phái
sứ giả mang lễ đến thỉnh ngài vào triều. Ngài mở đạo tràng niệm Phật tại
hoàng cung, cũng gồm năm hội. Vì thế, người đường thời gọi ngài là Ngũ
Hội Pháp Sư.
Từ
đó Ðại sư tinh tấn tu hành, ngày đêm không trễ. Một đêm nọ ngài thấy vị
đến bảo: “Hoa sen công đức của ông nơi ao thất bảo ở cõi Cực Lạc đã
thành tựu. Ba năm sau là đúng thời kỳ hoa nở, ông nên chuẩn bị”. Ðến kỳ
hạn, Ðại sư gọi Tăng chúng lại căn dặn rằng: “Ta về Cực Lạc, mọi người
phải gắng tịnh tu!” Nói xong, ngài ngồi ngay yên lặng mà tịch.
Trích Mấy Ðiệu Sen Thanh, Quyển 1
Cố Hòa thượng Thích Thiền Tâm