Thượng Sĩ có tất cả, như
tất cả những con người cư ngụ trên mặt đất đã có, nhưng Thượng Sỹ lại
có cái “không” mà những người cư ngụ trên mặt đất không hề có. Cái không
ấy là bản năng tuyệt luân vượt ra ngoài định kiến, phán đoán suy luận,
gò bó trong mọi định thước. Hành hoạt một cách siêu dị không câu nệ chấp
trước, chỉ tìm thấy trong những con người đạt được sự chứng ngộ giải
thoát ở nội tâm.
Tuệ Trung đi vào vuộc đời, sống với cuộc đời với
con người để từ đó hoán chuyển mọi tăm tối, hành động nầy là việc làm
của những Bồ Tát mang đại nguyện trùm kín cả vũ trụ, hy sinh thân mạng
để xoa dịu những thống khổ đang bao phủ vùng trời tâm linh mà con người
đang trực diện. Giá trị đó được tiềm ẩn qua con người Thượng Sĩ, ông đã
từng đem bản thân mình ngăn chận những cuộc xâm lăng của nhà Nguyên. Đã
từng được phong tước Hưng Ninh Vương. Nhưng ông vứt tất cả còn lại phong
cách Thiền Sư, đối diện với trần thế bằng tình thương bao dung, không
bị giới hạn. Trộn lẫn với cuộc đời hay không, vượt thoát hay đắm chìm
trong tử sinh, bỏ tung tất cả hay gánh trọn trên đôi vai. Đối với những
người giác ngộ, thực chứng thì hành động nào cũng đều ung dung thanh
thoát giữa dòng đời trôi nổi. Với những kẻ siêu việt nầy, tất cả chỉ là
ảo ảnh, phù vân một trò đùa được dựng nên từ hý trường, đâu đó bỗng chốc
phiêu bồng như chính cái hiện hữu phi thực của nó. Những tăm tối trầm
luân tạo đau khổ cho những ai trong cuộc. Tuệ Trung Thượng Sĩ đã từ đó
mà đi ra nên ung dung tự tại, vung tay là bóng tối liền tan, mở miệng là
ngàn hoa phơi sắc, và nhắm mắt là tịch nhiên chiếu rọi.
Bóng dáng
nào mà không bị đẩy lùi, hình ảnh nào mà không tan hủy. Nhưng, con người
và ảnh tượng của Tuệ Trung trở nên siêu thực, tồn tại trong hố thẳm
ngàn hoa, nên mãi là biểu tượng cho những kẻ muốn đạt đến một thứ tự do
siêu nghĩa, trong việc tìm thấy ánh sáng chiếu rọi của thực chứng.
Sự tự do độc nhất mà Tuệ Trung có được, là vượt ra ngoài định mức tự do.
Ở đó còn duy nhất kẻ đứng chơ vơ giữa đất trời, không bóng dáng hình
tượng nào chung quanh, nếu có cũng chỉ là thể dụng hiển hiện của tâm
thức vượt tung. Không bao giờ có thể đo lường ngăn ngại được tâm tư vĩ
đại của Tuệ Trung, kẻ đã tự do rong chơi dạo khắp nẽo luân hồi, chưa một
lần chùng bước trước những thử thách.
Em gái Tuệ Trung là Hoàng Hậu
Thiên Cẩm, một hôm thiết tiệc mời ông tham dự, trong bàn tiệc có đầy đủ
thịt cá, chay mặn. Gặp thịt cá ông cũng không từ, tự nhiên gắp ăn, thấy
thế Hoàng Hậu ngạc nhiên hỏi: “Anh tu Thiền mà ăn thịt cá thì thành
Phật sao được ?”
Thượng Sĩ cười đáp: “Phật là Phật, anh là anh. Anh
chả cần làm Phật. Phật chả cần làm anh. Em chẳng nghe cổ đức nói “Văn
Thù là Văn Thù, giải thoát là giải thoát đó sao ?””
Con người Tuệ
Trung không phải điển hình sự phóng khoáng nầy là đủ, trong ông còn
nhiều sự tự do. Ông đã là con người tùy tục làm giống như cuộc đời,
những gì kẻ khác có ông cũng có nhưng, có nầy là lẽ của tương đồng, của
tỉnh thức, và thực ngộ.
Khi mê thấy không sắc
Khi ngộ hết sắc không
Sắc không và mê ngộ
Xưa nay một lẽ đồng
Chính vì chúng ta ràng buộc trong những tính toán, nên hầu hết tạo thêm
những triền phược lấp kín lối vào giác ngộ. Nhìn sắc sanh ra đắm nhiễm,
ngửi nghe khởi lên muôn ngàn vọng tưởng, nên trần lao trở thành ngôi mộ
vĩ đại nhốt kín con người. Với Thiền Sư đi vào tử sinh như đi trên thảm
hoa, uống nước ái dục như uống cam lồ vị, sống giữa cuộc đời như sống
với thực ngộ. Thì cuộc đời không phải là những hổ tương cần thiết cho
thực chứng ấy vươn lên tận mây ngàn hay sao?
Tuệ Trung mất trong
vòng tay yêu thương của thê thiếp, trong giọt nước mắt bi ai của nữ tỳ,
trong sự khóc thương buồn đau chồng chất ai oán để tiễn đưa người yêu
thương đến nghìn thu vĩnh biệt. Ông đã ung dung ra đi với phong cách
người rũ sạch nợ trần, như chưa một lần cột được con người ấy. Ông nghe
tiếng khóc mở mắt ngồi dậy, sai lấy nước rửa tay súc miệng, trách nhẹ
vài lời “Sống chết là lẽ thường nhiên, sao buồn thảm luyến tiếc chi làm
náo chân tánh ta.”
Trong khi sống, Thượng Sĩ đã tự do, nhưng khi sắp
chết ta mới thấy cái phi thường tự do của người giải thoát. Nếu con
người bình thường, hẳn đã không đủ tâm thần bình tĩnh trách nhẹ kẻ khác,
làm quấy giấc ngủ ngàn thu của mình. Thần chết bất lực trước những bản
thể thực chứng về hiện tượng tử sinh, nên đành chào thua để Tuệ Trung tự
do đến đi trong cuộc đời. Điểm khởi mà ngài đến chỉ là nhịp cầu gạch
nối giữa hiện thực và phi thực. Hiện thực nầy là nguyên lý của những gì
vượt ra khỏi sự chi phối tác động về thời gian và hiện thực nầy là kết
quả thực chứng, nên sự tàn hủy chỉ là môi năng cho những sinh khởi. Với
kẻ có được ý thức về thực ngộ, đã trông thấy đâu là ngọn ngành nên không
vì đó khởi lên những sai biệt.
Phi thực có thể tạo những triền miên
thống hận cho những ai chưa khám phá ra bộ mặt nghìn đời của nó. Vì đối
đãi tương duyên với có không nên nó hiện hữu. Nhưng với người uống được
ngụm nước đầu nguồn, đến đi không vướng gót giày, tất cả chỉ là mây
giăng trên lối, thong dong trên đỉnh đồi trơ trụi với tuyết sương.
Ý
lực nào đã đưa đẩy Tuệ Trung dám bỏ lại sau lưng những biến động của
trần thế? Ý lực nào đã tạo nên một Tuệ Trung trác việt, siêu dị? Có phải
đó là kết quả do những khám phá, truy tầm, đạp tung và khơi dậy cái
linh năng, tri giác, vốn đã tiềm ẩn trong mỗi con người ?
Muốn quật
tung và hiển nở bản thể linh diệu nầy trước hết phải ngắm nhìn thực
trạng sanh diệt bằng con mắt trí huệ, quán chiếu đến tận cùng vật thể.
Những thành trì suy luận lừa đảo phải đập vỡ ngay, vận dụng mọi cơ năng
quyết chống lại, đẩy tung phiền trược. Chỉ còn lại cái vắng không tròn
đầy linh diệu mà Tuệ Trung đã đạt được. May ra ta mới trở thành như ông.
Hình thức mà ông đang có đó, một con người không hề cạo tóc làm Sư,
nhưng với tâm linh ông cao vút lên tận mây ngàn, hình thức có thể là lớp
son phấn bao bọc bên ngoài. Không cần thiết, nhất là hành trình tìm đến
giải thoát. Sự phân biệt giữa một người xuất gia với tại gia theo nghĩa
thông thường, thì đó là điểm tựa để tạo nên môi giới, nhưng tìm đến
thực chứng của những Thiền Sư thì không có ranh giới hữu hạn, mà là mấu
chốt quật khởi tâm linh. Đạt được điều này thì đâu cũng là giải đất bằng
mầu mỡ, ranh giới nào mà không bị san bằng tiêu hủy.
Tuệ Trung
đã từng vứt bỏ những phê phán thị phi, vì đó là quan niệm cố hữu nằm
trong lăng kính, với những sắc màu lôi kéo. Nên không thể cảm nhận sâu
xa về con người đã đạt được chiều sâu thực chứng. Ông đã từng liệng nó
vào hố thẳm trần gian. Vì thế những ai gần ông đều qui phục, cảm cách.
Vua Trần Nhân Tông viết về Thầy mình (Tuệ Trung) như sau: “Thượng Sĩ
sống giữa lòng thế tục, hòa ánh sáng mình trong cuộc đời bụi bặm, trong
mọi cuộc tiếp xúc, thượng sĩ luôn luôn giữ thái độ hòa ái nên chưa bao
giờ gặp phải những trường hợp phiền nghịch. Do đó ngài có thể làm tiếp
nối hạt giống chánh pháp dìu dắt được những kẻ mới học. Ai đến tham cứu
tìm học với ngài cũng được ngài chỉ dẫn sơ lược cho thấy phần cương yếu
của đạo pháp khiến tâm họ có thể nương tựa. Thượng Sĩ không bị ràng buộc
bởi hình thức khi thì ẩn tàng, khi thì lộ diện, ngài không chấp vào
hình thức và danh từ.
II. HÌNH ẢNH DUY MA CẬT VÀ BÀNG LONG UẨN TRONG CON NGƯỜI TUỆ TRUNG THƯỢNG SĨ
Duy Ma Cật và Tuệ Trung hai con người ở hai phương trời cách biệt, ở
hai thời đại và bối cảnh xã hội khác nhau. Nhưng đã gặp nhau ở điểm, đó
là hạnh nguyện và phong thái của những con người trác dị siêu nhân.
Duy Ma Cật, một cư sĩ vĩ đại, đã từng khai thị cho những đại đệ tử của
Phật. Vì muốn độ chúng sanh nên ông thị hiện làm vị trưởng giả giàu có
để nhiếp độ các hạng dân nghèo. Vì đại nguyện cao cả ông thị hiện kẻ
bạch y hộ Pháp đắc lực cho đức Phật Thích Ca, hạnh nguyện của những bậc
Bồ Tát là trong đời ngũ trược làm kẻ tiên phong đi vào nhiếp độ chúng
sanh lầm than. Và phong thái ông một người có vợ con giàu sang tột bực
nhưng, không vì thế mà vướng bận tâm của người giải thoát.
Tư tưởng
Duy Ma Cật là loại tư tưởng siêu thể, không nằm ở định mức, một khi tung
ra là chấn động cả càn khôn, có thể lấy núi tu di nhét vào trong hột
cải, có thể lấy nước bốn biển cho vào lỗ chơn lông mà không khuấy động
loài thủy tộc. Duy Ma Cật đã từng trong nhà Như Lai đi ra, nên mọi hành
hoạt đều hướng đến tịch nhiên an lạc, giàu có vương giả, thê thiếp vợ
con, có kẻ hầu hạ nhưng tu hạnh thanh tịnh, ngoài hiện tướng phàm nhưng
trong là tâm Phật, đi vào nơi cờ bạc rượu chè nhưng là hạnh nguyện của
đại Bồ Tát cứu độ muôn loài.
Ông đã từng khai thị cho Xá Lợi Phất
đại đệ tử của Đức Phật khi đang ngồi tọa thiền dưới gốc cây. “Thưa ngài
Xá Lợi phất ! Bất tất ngồi sững đó mới ngồi yên lặng. Vả chăng ngồi yên
lặng là ở trong ba cõi mà không hiện thân ý mới là ngồi yên lặng, không
khởi diệt tận định mà hiện các oai nghi mới là ngồi yên lặng, không rời
đạo pháp mà hiện các việc phàm phu mới là ngồi yên lặng, tâm không trụ
trong cũng không ở ngoài mới là ngồi yên lặng, đối với các kiến chấp
không động mà tu ba mươi bảy phẩm trợ đạo mới là ngồi yên lặng, không
đoạn phiền não mà vào Niết Bàn mới là ngồi yên lặng. Nếu ngồi được như
thế là chổ Phật ấn khả vậy".
Có như thế những đại đệ tử của Phật
như: Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Đại Ca Diếp, Tu Bồ Đề, Phú Lâu Na, Ma
Ha Ca Chiên Diên, A Na Luật, Ưu Bà Ly, La Hầu La v.v… Và ngay cả những
bậc Bồ Tát cũng không dám đối diện. Không một ai dám đương đầu nổi với
Duy Ma Cật, ông quật tung ngã nhào tất cả. Với ông không phải ngồi yên
lặng dưới gốc cây mà có thể thành Phật, muốn thành Phật phải lăn xả vào
cuộc đời, hành động trong ý tưởng vượt thoát mới có cơ may đạt được
chặng đường nầy. Không chấp vào đâu, dù đó là những lời dạy của Đức
Phật, phải có cái tâm thanh tịnh không nhơ cấu đón nhận các pháp. Y vào
kinh điển giải nghĩa thì oan cho ba đời chư Phật, mà rời bỏ một chữ thì
đi vào con đường ma quỷ. Ở trong đó tha hồ rong chơi dạo khắp, đừng mang
tâm chấp trước. Hễ còn chấp thì rơi vào cửa ngõ triền miên điên loạn,
vượt tung ra khỏi màng lưới chằng chịt ngữ ngôn, đạt ý quên lời thì con
đường nào không thênh thang rộng mở, lối nào có thể cột được tâm tư kẻ
không nhiễm bụi trần. Vào chỗ đông người như vào chỗ không có ai.
Tuệ Trung Thượng Sĩ (1230-1291) sau Duy Ma Cật đã mấy ngàn năm nhưng
phong thái trác việt của Tuệ Trung đi vào cuộc đời tương tự như Duy Ma
Cật, những gì phiến động, đạp đổ trong con người Duy Ma Cật với Tuệ
Trung cũng đều có. Chỉ có những con người vĩ đại mới bắt gặp nhau ở một
cấp độ mà con người mê muội không thể tìm gặp. Cấp độ đó tựa như dòng
sóng khủng khiếp cuốn phăng những trì trệ trong hành trình đạt được thức
giác ở tâm linh. Cuốn đi những cặn bã bao phủ cuộc đời.
Thiền Tổ Trúc Lâm Trần Nhân Tông ca ngợi Tuệ Trung Thượng Sĩ như sau:
Ngóng càng thêm cao
Khen càng thêm bền
Bỗng sau lưng đó
Xem lại trước liền
Đó là Thượng Sĩ
Vậy mới là Thiền.
Tất cả những gì tuyệt độc nhất trong ngữ ngôn cũng không thể xưng tụng
được trọn vẹn con người Thượng Sĩ, trông lên thì vời vợi, quay đầu nhìn
lại thì Thượng Sĩ đã ở sau lưng. Ông chưa một lần đến nên chẳng để lại
dấu vết khi ra đi, nhưng những tương quan nhìn ngắm về ông, đâu đó bóng
dáng siêu việt ấy in tự bao giờ, chỉ cần quay đầu không dong ruổi thì
lúc nào ông cũng hiện diện. Thượng Sĩ là cây đuốc rực sáng trong thời
đại vàng son của Thiền học đời nhà Trần, vì thế những người có cơ duyên
muôn thuở gặp được ông đều thấm nhuần giáo pháp. Nhưng nếu không thường
nghiệm nơi tâm thức chính mình, thì không thấy được sự có mặt của Thượng
Sĩ. Ông chỉ khơi dậy những gì yên ngủ bấy lâu, yếu tố để được dậy hay
không tùy thuộc vào chính kẻ đó.
Một nhân vật khác nữa có những
tương quan, những nét độc dị, và đã lưu lại hình ảnh cũng như âm vang
cao vút ở bên Tàu. Đó là Thiền Sư Bàng Uẩn, được kể như một trong những
cư sĩ thượng thặng có khuynh hướng lập dị, tùy tục nhưng phong thái trác
việt. Ông sống gần gũi với mọi người để tùy bịnh cho thuốc. Lương dược
nầy nếu uống đúng cách thì tử sinh không bao giờ đụng đến. Và nếu có thì
đó là đại nguyện. Thượng Sĩ được kể như có những nét tương đồng với
Bàng Long Uẩn.
Bàng Uẩn một cư sĩ Thiền Sư vĩ đại, đệ tử của Mã Tổ một hôm hỏi Mã Tổ “Ai là người chẳng cùng vạn pháp làm bạn lứa”
Mã Tổ đáp: “Đợi khi nào ông một ngụm uống cạn nước Tây Giang ta sẽ trả
lời cho ông”. Lối trả lời nầy khiến cho Bàng cư sĩ chới với trước những
thuật ngữ có không. Và sau những tháng ngày mài dũa công án Mã Tổ đã
trao. Một hôm, Bàng Uẩn bỗng chốc vỡ tung ra, đạt được “Tâm không” và
trình kệ cho Mã Tổ.
Mười phương cùng tụ hội
Người người học vô vi
Đây là chỗ tuyển Phật
Tâm không thi đậu về.
Bàng cư sĩ chủ trương Tánh Không “Đừng sợ rơi vào không, rơi vào không
chưa phải chuyện dữ. Chỉ mong coi tất cả những cái có đấy là không, chứ
đừng lấy cái không chi làm thật, vì bản tính của chúng là không.”
Ông là một trong những cư sĩ Thiền Sư mà ảnh hưởng rất đậm trong giới
Thiền. Ông vẫn có vợ con, và cả gia đình của ông đều là những người
chứng đắc, nên khi ông sắp qua đời, con của ông thi nhau tịch trong tự
tại an nhiên trước ông. Quả thật những con người siêu dị có khác kẻ chưa
đạt được chút gì an nhiên trong cuộc đời.
III. THƯỢNG SĨ NGỮ LỤC
Nếu những lời khai thị của Duy Ma Cật làm cho đại đệ tử của Phật run sợ
không dám đối đầu, thì những lời pháp của Tuệ Trung cũng làm cho kẻ đối
diện khiếp đảm không ít. Lối nói Pháp của Tuệ Trung gần như phủ định sự
có mặt của ngôn ngữ, hiển lộ nên biểu tượng cho một sự thể đang nấp
kín đàng sau ngôn từ, dù rằng đó là hiện hữu trừu tượng, để từ đó tìm ra
cái tuyệt đối của ngôn từ theo nghĩa đạt ý quên lời.
Có một vị Tăng hỏi:
- Thế nào là đạo ?
Thượng Sĩ đáp:
Đạo không có trong câu hỏi
Câu hỏi không có trong đạo
Nếu y cứ vào luận lý học thì lối trả lời này thuộc loại siêu nghĩa,
không ăn nhập gì đến nguyên tắc luận lý, nhưng chính điều đó mới tạo nên
cái lửng lơ cho người hỏi, không một điểm tựa để bám vào, hễ còn bám
được thì lại rơi vào sở tri chướng, ngăn ngại trí tuệ phát sinh. Nên hầu
hết các vị Thiền Sư không nằm ở điểm nào, chúng ta không thể căn cứ vào
đâu để tra vấn. Và nếu có thì sự tra vấn ấy không giải quyết gì cho con
đường giác ngộ. Nếu không tự mình tra vấn với chính ta. Không khéo điều
nầy đưa ta rơi vào cửa ngõ của chấp trước. Cần nhất đừng trụ bám vào dù
không hay có. Tuệ Trung đề cập đến “muôn vật trở về” như sau đây:
Từ không khởi có, có không thông
Có có không không, rốt cuộc đồng
Phiền não bồ đề nguyên chẳng khác
Chân như vọng niệm thảy đều không
Thân như cảnh giả nghiệp như bóng
Tâm tợ gió đưa tánh tợ bồng
Chớ hỏi tử sinh ma với Phật
Sao chầu hướng bắc nước về đông.
Phiền não và Bồ Đề là hai thể đối lập nhau theo quan niệm con người. Vì
chúng ta đắm chìm trong phiền não không nhận ra được chân tướng nó, nên
mới có đối tượng Bồ Đề để ta y cứ vào đó vượt thoát. Thật ra nó đều hỗ
tương với nhau, bởi lẽ cái này lập nên cái kia cũng lập, vì thế trong
phiền não vốn có Bồ Đề, chỉ cần ta nhích mạnh tay then chốt nầy vỡ tung
ngay.
Xưa có vị khách đến hỏi Thiền Sư. Thế nào là Phiền Não; Thế
nào là Bồ Đề? Thiền Sư bèn quát lên một tiếng và chê trách anh ta. Thế
là vị khách nổi giận rút gươm ra định chém. Thiền Sư từ tốn bảo: Phiền
não là thế đó. Anh ta bỏ gươm xuống, Thiền Sư nói tiếp Bồ Đề là thế đó.
Tuệ Trung không thừa nhận việc tìm đến Chân Như mà dứt đi vọng niệm. Hễ
còn mong ý cầu Chân tức là vọng rồi. Sự mong cầu nào cũng trá hình của
dục vọng dù đó là Chân hay không. Nếu chúng ta dụng công đúng với như
thị chánh pháp, thì không cầu nó cũng tới vì đó là kết quả tất nhiên của
việc hạ thủ công phu, cần gì phải cầu ?
“Cầu chân như mà dứt vọng niệm, tợ hét to để át tiếng vang.
Bỏ phiền não mà giữ Niết Bàn, như sợ bóng chạy vào nắng trốn.”
Nếu không có được tâm thức sinh động, chúng ta sẽ mù mờ trước những ngữ
ngôn của Tuệ Trung. Đâu đó chỉ thấy những đập vỡ, cách mạng để lập nên
hiển lộ những bí ẩn núp sau những vỏ khô cứng, ru ngủ ta trong những lâu
đài thành quách phong tỏa bởi trần lao. Phải bung ra để được vỡ tung
một lần, đi vào bụi hồng thể nghiệm tâm năng thực ngộ, phải vào vòng cát
bụi với những ca khúc tuyệt diệu. Nhưng phải là tâm thức của không ô
nhiễm. Chỉ có yếu chỉ nầy ta mới đủ bản năng rong chơi mọi nẽo không ai
có thể ngăn trở bước đi, và chẳng gì có thể để cho bụi hồng vướng được.
Vào chỗ đông người tợ đi vào rừng sâu, không bóng dáng che kín được nhãn
quan mình, khởi lên lòng từ bi yêu thương không bờ bến, nhưng không một
ai có thể núp mình trong quả tim vĩ đại đó. Bước vào tựa như nghe được
khúc ca không khuất trong vô cùng, đôi chân nhịp nhàng theo điệu múa
chưa bao giờ được cất lên.
Diễn tả những trạng huống nầy Tuệ Trung cho chúng ta một quan niệm vượt thoát như sau:
“Vào vòng cát bụi nhịp chân đưa
Vàng óng bờ mi chớp chớp đùa
Xóm bắc rong chơi gieo bụng ngựa
Nhà đông vui bước nhập thai lừa
Roi vàng đuổi mất trâu bùn chạy
Gậy sắc lôi về cọp đá thua
Rồi một ngày mai băng giá hết
Trăm hoa như cũ rộn Xuân xưa”
Sự giác ngộ vốn không tách khỏi những triền phược mà có, trong đó nếu
khơi dậy dòng ý thức luân lưu không ô nhiễm thì tất cả những tương quan
bỗng chốc bùng lên ánh sáng quét sạch bóng tối ngàn năm trong chốc lát.
Chưa một ai có thể từ chối cuộc đời mà đạt được giải thoát và cũng chưa
có ai trốn chạy khổ đau mà đạt được con đường thoát khổ. Cần nhất du hí
trong đó với tâm lực tùy duyên bất biến. Phải mài dũa tâm ý trong dòng
đời dông tố nhưng, không bị ràng buộc bởi những tháo gỡ. Với cái tâm
linh diệu. Trong bài “Vui thích giang hồ” Tuệ Trung đề cập:
“Giang hồ tâm ấy chửa từng lau
Ngày tháng như thoi như bóng câu
Gió mát trăng thanh luôn vẫn đó
Non xanh nước biếc thiếu gì đâu
Chiều nghiêng sáo thổi sương lồng khói
Sáng quấn bườm phăng sóng bạc đầu
Tăm bóng Tạ Tam nay vẫn bặt
Thuyền không bỏ đó gối cồn nâu.”
Điểm nổi bật khi Thượng Sĩ đề cập về Tâm. Ở đó ta thấy được sự bất nhị mà ông muốn nói đến
Tâm tức Phật
Phật tức Tâm
Linh diệu chiếu cùng kim cổ thông
Xuân đến tự hoa xuân mỉm miệng
Thu về, đâu chẳng nước thu trong
Và một đoạn khác
Bỏ vọng tâm
Giữ chân tánh
Khác nào tìm ảnh mà quên kính
Nào hay ảnh vốn tự gương ra
Chẳng biết vọng do từ chân hiện
Vọng lên chẳng thực cũng chẳng hư
Gương nhận không tà cũng không chánh
Tâm con người vốn không chân cũng không vọng. Vì do những chấp trước
sai biệt nên có chân, vọng. Hầu như trong chúng ta đều ghét vọng tìm
chân. Có thể cái chân ta muốn tìm đến sẽ trở nên ngăn ngại chính ta, bởi
lẽ vọng chân tuy hai là một, nương với nhau mà có, ngay trong vọng vốn
đã có chân, chỉ cần vén bộ mặt nghìn đời của nó lên thì chân xuất hiện.
Không cần phải tìm cầu đâu xa. Nó ở ngay trong cuộc đời và trong ta.
Cũng như tấm gương chỉ in hình bóng dù là tà hay chánh, ô uế hay sạch.
Có được như thế thì sự nghiệp giác ngộ hẳn nhiên hiển lộ.
Vọng tưởng
và ảo ảnh đã lừa dối tri thức con người một cách phi lý, tạo cho cảm
quan rơi vào trạng thái mặc nhiên để nó chi phối sai sử. Giống như khi
ta nghe kẻ khác nói về một hiện tượng có vẻ quái lạ, thì ảo tưởng sẽ
khiến cho ta duyên theo đó gắn thật nhiều những suy tưởng tô điểm thêm
cho hiện tượng đó. Trước hết ta bị lôi cuốn bởi ý thức của kẻ khác. Và
chính ý thức kẻ cung cấp cho ta dữ kiện đã là không thực, ta lại gắn
thêm cái không thực nữa, thì làm sao Chân tánh của mình xuất hiện? Cần
nhất từ đó chuyển hướng thì bóng tối liền tiêu, vén mở tâm linh toàn
giác.
IV. HÌNH THỨC VÔ NGHĨA TRƯỚC NHỮNG THIỀN SƯ
Thiền
vốn quăng đi những hình tướng câu nệ trói buộc ngăn ngại tâm linh giác
ngộ, với Thiền cần nhất khai quật nội tâm. Tất cả những hình tướng đều
bị vỡ tung, vì tự nó vốn đã không thực. Đó chỉ là cái vỏ rỗng tuếch,
ngược lại nó là điểm quan trọng, hầu hết con người căn cứ vào để phán
xét và gắn những nhãn hiệu lố bịch một cách phi lý. Dù rằng trong tâm
của họ mê mờ lừa đảo, nhưng ngược lại có bóng dáng “dễ coi” thì được kể
như tốt rồi.
Với Thiền điều này hoàn toàn vô nghĩa không thiết thực.
Phải phơi bày nội tâm để hạt giống giác ngộ có cơ may bùng trỗi dậy,
tuyệt đối không sơn phết cái vỏ bên ngoài. Vì thế có những Thiền Sư vượt
ra khỏi cuộc đời với phong thái lạ lùng quái đản, quần áo tóc tai không
màng trau chuốt, nhưng mở miệng là chứa đựng một nội tâm siêu việt, coi
thường sống chết, có những vị dị hình kỳ tướng, nhưng là bậc kỳ tài
trong thiên hạ. Không cần phải cạo đầu mới gọi là tu, nếu không cạo sạch
phiền não trong tâm.
Trong lịch sử Thiền những người như Thượng Sỹ
đã chiếm một vị trí quan trọng. Miễn sao nội tâm cao vút lên tận trời
cao là được. Trước Tuệ Trung có những Thiền Sư cư sĩ như Ứng Thuận thầy
của Thiền Sư Tiêu Diêu, thiền sư Giới Minh, thiền sư Giới Viên, và quốc
sư Nhất Tông. Trước đó có Thiền Sư Thần Nghi và Thiền Sư Thần Chiếu.
Không một ai trong chúng ta có thể phủ nhận công nghiệp tâm linh vĩ đại
của những vị này.
Ngay cả Lục Tổ Huệ Năng lúc được trao truyền y
pháp vẫn còn là một cư sĩ, nhưng đã thống lãnh Đông Sơn pháp môn và cho
đến bây giờ dòng suối vi diệu ở Tào Khê vẫn chảy mãi xuống cuộc đời. Đối
với những con người siêu việt nầy ngữ ngôn thị phi như lời pháp, như
chiếc dép cũ mòn cần quăng ngay vào bụi. Đứng đi trong cuộc đời như đi
vào chỗ không có người, bởi lẽ dòng tâm của những vị đã ở trên cao điểm
ngút ngàn thì sá gì vọng động của trần gian. Nếu không phải ngôn ngữ bế
tắc trước những hành hoạt phi thường mà đối tượng khủng khiếp là những
Thiền Sư hay sao? Lúc nào các vị cũng cười lên những tiếng chấn động
màng nhĩ, từ trên chót vót hùng vĩ những ngọn núi cô độc chơ vơ vọng
xuống cuộc đời, tiếng cười đinh tai nhức óc, xé cả hư không lồng lộng,
tạo nên mây mờ sấm sét trút những trận mưa rào xuống tưới mát triền
phược mà ta đang lặn hụp.
Tất cả hình tướng đều phải đổ ào trước khi
đối diện với Thiền, có như thế những Thiền Sư mới đốt rụi cháy tan
những gì mà con người ra sức tô son điểm phấn. Nếu không, điều này chỉ
ngăn ngại chứ không giúp được gì trong việc hướng đến tỉnh ngộ. Nếu
chúng ta không vượt ra khỏi hình thức đã kèm giữ ta một cách phi lý, thì
mộng trần gian mãi là bến bờ không thuyền đưa ta sang sông.
Đời nhà
Trần đã tạo nên những Thiền Sư trác việt, hầu hết các vị là vua quan,
nhưng công danh phú quý không vướng bận lòng. Nhờ thấm nhuần được chánh
pháp nên thời đại nhà Trần một trong những thời vàng son nhất của Dân
Tộc. Những đóng góp của các Thiền Sư tác động mãnh liệt trong mọi khía
cạnh văn hóa, chính trị, xã hội – dựng nên thời vẻ vang cho dân tộc. Đến
bây giờ mỗi khi đề cập đến thời kỳ này, ta có cảm nhận sự huy hoàng,
thịnh vượng hãy còn phảng phất đâu đây.
Tuệ Trung Thượng Sĩ đã đi
vào cõi vô cùng, nhưng ngữ lục của ngài vẫn còn chấn động mãnh liệt
trong tâm thức mỗi người. Ngữ lục trở thành bửu bối cho những ai muốn
tìm về uyên nguyên giác ngộ. Để kết thúc bài nầy với những lời kính cẩn
của Thiền Tổ Trúc Lâm Pháp Loa, tán dương Tuệ Trung Thượng Sĩ.
A !
Gang ròng nhồi lại
Sắt sống đúc thành
Thước trời tấc đất
Gió mát trăng thanh
Ối !
Như Hùng
Trích từ tác phẩm Thiền Sư và Tư Tưởng Giác Ngộ , xuất bản 1987
http://thuvienhoasen.org/D_1-2_2-79_4-18828_5-50_6-3_17-146_14-1_15-1/tue-trung-thuong-si-hien-than-cua-duy-ma-cat-va-bang-long-uan.html