nói riêng đã dồn hết tâm lực trí huệ
 của mình để thể hiện tấm lòng của con dân Đại Việt và Phật Giáo Đại 
Việt tri niệm “Tứ Trọng Ân”, Tổ Quốc, Dân Tộc, Đạo Phật và Liệt vị Tổ 
Tông. 
								
								Phật Giáo tại Đại Lễ 
Phật Giáo  1000 năm Thăng Long Hà Nội thể hiện rõ nét tính chất kế thừa 
truyền  thống Phật Giáo Lý Trần, phát huy tinh thần “Trụ tích trấn vương
 kỳ” của  Vạn Hạnh Thiền Sư, góp phần xây dựng một đất nước Việt Nam Đạo
 đức,  thanh bình, giàu đẹp trên ý tưởng của Pháp Thuận Thiền Sư “Trời 
Nam ôm  thái bình, Đạo đức ngự cung điện, muôn xứ hết đao binh”.
Kế thừa Tinh thần lễ nhạc Phật Giáo Đại 
 Việt Lý Trần, Lễ nhạc Phật Giáo truyền thống Việt Nam thời hiện đại nói
  chung, nghi lễ tán tụng ba miền Bắc Trung Nam nói riêng một lần nữa 
khẳn  định vai trò và vị trí quan trọng của mình trong nền âm nhạc cổ 
truyền  Việt Nam và âm nhạc truyền thống Phật Giáo Thế Giới. Nghi lễ Tán
 tụng  Phật Giáo có nguồn gốc từ âm nhạc truyền thống Ấn Độ chịu sự ảnh 
hưởng  của lối tụng Vệ Đà của Ấn Độ Giáo.
Cũng có thuyết cho rằng nghi lễ tán tụng
  Phật Giáo có nguồn gốc từ những ca từ điệu khúc của Chư Thiên tán thán
  Đức Phật sau những lần Đức Thế Tôn thuyết pháp gọi là Phạm Âm, cho nên
  âm nhạc Phật Giáo là thể loại âm nhạc dùng trong các nghi thức tôn 
giáo  để tán thán khen tụng chứ không phải dùng để biểu diễn mua vui, 
cho nên  từ giọng điệu cho đến cách thức đều mang đậm tính cách trang 
nghiêm,  thanh tịnh, chậm rãi, du dương, thiền vị, sâu lắng, trong Kinh 
[Trường A  Hàm] chép Phạm Âm có 5 loại:
1/ Âm thanh Chánh trực.
2/ Hòa nhã.
3/ Trong sạch tinh khiết.
4/ Viên mãn sâu lắng
5/ Biến hết cùng khắp xa gần đều có thể nghe.
Tính chất thanh tịnh của Phạm Âm làm cho
  người lắng nghe có thể hòa quyện vào thế giới của chư Phật, có thể  
chứng đắc quả vị “Vô Lượng Âm Thinh Vương Phật” vì âm nhạc Phật Giáo khi
  tấu lên có mục đích và năng lực để cho người nghe theo đó mà tu hành  
đạt đến Giải thoát và Giác ngộ. Trong [Du Già Diệm Khẩu Khoa Nghi] có  
câu: “Pháp nhạc tấu khúc vô sanh, Phạm âm diễn lời tối thượng”.
Âm nhạc Tán tụng truyền thống Phật Giáo 
 Việt Nam được truyền trực tiếp từ Ấn Độ. Trong [Việt Nam Phật Giáo Sử  
Luận] Nguyễn Lang chép: “… người Giao Châu biết đến Đạo Phật…Họ phụng  
thờ Xá Lợi, đốt hương trầm, đọc thuộc một vài đoạn Kinh Nhân Quả…” trên 
 đây là nguồn cội của nghi lễ, tán tụng của phật Giáo Việt Nam. Phụng 
thờ  Xá Lợi là nguồn gốc của tín ngưỡng Thờ cúng, Nghi lễ, Nghi thức.
Đọc thuộc một vài đoạn Kinh Nhân Quả, họ
  đọc theo lối nào tất nhiên là không phải âm điệu của người Việt cổ, mà
  phải đọc tụng theo lối tán tụng của của các nhà truyền giáo Ấn Độ 
những  người đầu tiên đem đạo Phật đến Việt Nam. Đến đầu Công Nguyên thế
 kỷ thứ  nhất trở đi nước Việt Nam chúng ta bị người phương Bắc xâm 
chiếm và Bắc  thuộc trong 1000 năm, đây là thời kỳ mà Văn Hóa Dân Tộc 
cũng như Phật  Giáo chịu sự ảnh hưởng văn hóa Phương Bắc. Phật Giáo 
truyền vào Trung  Quốc có thuyết cho rằng sau Việt Nam, vì trung tâm 
Phật Giáo Luy Lâu của  Việt Nam có trước hai trung tâm Phật Giáo Lạc 
Dương và Bành Thành Trung  Quốc.
Tán tụng Phạm Bối của Phật Giáo Trung  
Quốc có nguồn gốc từ đời nhà Ngụy (220-280) theo [Thích Thị Yếu Lãm]  
chép: “con của Ngụy vương Tào Tử Kiến dạo chơi ở Ngư Sơn, bỗng nghe trên
  không trung có tiếng Phạm Âm thanh tịnh, du dương, réo rắc. Âm thinh  
làm cho người nghe phải động tâm, một mình lắng nghe rất lâu, sau đó mô 
 phỏng âm tiết, viết thành Phạm Bối, tuyển văn chế thành âm luật, truyền
  cho đời sau.
Đây là nguồn gốc của phạm Âm Tán Bối  
vậy.” Phạm Bối là hình thức âm nhạc đặc thù riêng biệt của Phật Giáo Bắc
  Truyền và chỉ riêng Phật Giáo Bắc Truyền mới có thể loại âm nhạc này, 
 trong [Thích Thị Yếu Lãm] định nghĩa về tán tụng chép: “Tiếng Phạm xưng
  là Bối Nặc, Hoa ngôn gọi là Chỉ Đoạn. Do là việc bên ngoài đã dừng và 
đã  dứt, bấy giờ hoàn toàn tịch tịnh, chỉ chuyên tâm làm chuyện pháp sự…
Chư Thiên nghe Phạm Bối, tâm vui hoan  
hỷ, cho nên tán tụng gọi là Phạm Bối.”. Rất sớm trong Tăng Đoàn Phật  
Giáo có vị chuyên tu về Pháp môn Tán Bối, trong [Thập Tụng Luật] chép về
  một vị Tỳ Kheo chuyên tu về khoa đàn tán tụng cúng kiến: “ Tỳ Kheo Bạc
  Đề, là người giỏi nhất trong việc Tán Bối.”.
Nghi lễ, cúng kiến, đám sám, Đàn Tràng, 
 tán tụng trong Phật Giáo khởi đầu là những pháp môn tự tu của hành giả 
 Phật Giáo, chứ không dùng để siêu độ hay cầu an. Nhưng vì tự mình tu  
hành có bao nhiêu công đức lại hồi hướng cho chúng sanh, chứ không phải 
 tự mình cầu phước báo. Vì khi có người cần tu phước báo để hồi hướng 
cho  thân bằng quyến thuộc của mình, cầu an hay cầu siêu, hoặc là hồi 
hướng  cho những loài chúng sinh có liên quan, cho nên cần những người 
tu hành  có phước báo để làm phép hồi hướng, chính vì thế mà trong Phật 
Giáo xuất  hiện một Pháp môn chuyên tu về Phạm Bối, chuyên lo về việc 
cúng kính  tụng Kinh hồi hướng công đức cho các Phật Tử giải quyết các 
vấn đề như.
- Lễ Cầu An giúp cho Phật Tử thể hiện sự quan tâm của mình và nhớ ơn đối với người đang sống.
- Lễ Cầu Siêu thể hiện lòng thành kính  
của mình đối với thánh thần và hoài niệm công ơn của người đã mất, và  
các hành giả tu tập pháp môn Phạm Bối sau này trở thành các thầy Kinh sư
  trong Phật Giáo Bắc Truyền.
Nghi Lễ Phật Giáo Bắc Truyền trãi qua  
hơn hai nghìn năm hình thành và phát triển cho đến ngày nay, Pháp Môn  
Phạm Bối của Phật Giáo Bắc Truyền đã trở thành biểu tượng văn hóa, nghệ 
 thuật của Phật Giáo hàm lượng hết thảy tư tưởng tinh thần Đại Thừa, thể
  nhập vô số tín ngưỡng thờ cúng dân gian trên quan niệm tùy duyên bất  
biến, hòa mình vào hầu như tất cả các thể loại âm nhạc của thế gian nơi 
 nào có hình bóng của Đạo Phật, đưa Thế nhạc trở thành Phật nhạc, hóa  
khúc bi tình thành giải thoát âm, đem nhạc lâm ly về chốn an lạc như  
tiếng Ca Lăng Tần Già tấu khúc Tây Phương.


Nghi lễ Phật Giáo Miền Bắc trên tinh  
thần là cội nguồn của nghi lễ của Phật Giáo Việt Nam, trãi qua hơn 2000 
 năm vẫn giữ nguyên bản sắc, âm điệu của tuồng chèo hòa nguyện với câu 
ca  quan họ của đất tổ ngàn xưa. Chiếc Ca Sa Đàn của Chư tôn đức Tăng 
Sám  Chủ Miền Bắc đắp trong Trai Đàn vẫn còn đậm nét Đường Y với Thành y
 và  Điều Y không cùng một sắc, thể loại Ca Sa này trên Thế Giới chỉ còn
 Chư  Tăng Việt Nam và Nhật Bản sử dụng.


Nghi lễ Phật giáo miền Bắc tại Đại lễ
Mão Thất Phật Liên Hoa là Tăng Mão đặc  
biệt của riêng Phật Giáo Việt Nam có nguồn gốc từ mão Ngũ Phật Bảo Quan 
 của Mật Tông, nhưng đặc biệt nhất là Phật vũ lục cúng của Chư Tăng Miền
  Bắc, theo ý kiến của nhiều nhà nghiên cứu khoa học về Vũ điệu Phật 
Giáo  trong nước cũng như nước ngoài, cho rằng đây là một trong những vũ
 điệu  cổ xưa của Phật Giáo có nguồn gốc từ Ấn Độ và cũng chỉ còn có ở 
Việt  Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc.
Nghi Lễ Phật Giáo Miền Trung trong niềm 
 tự hào của đất Thần Kinh một thuở, áo gấm màu vàng Quan Mão trang  
nghiêm, sắc phục Tăng Cang tăng thêm nét Thăng Long Đế Đô một thuở, Nhã 
 Nhạc Cung Đình như tái hiện lại cảnh thiết đại triều của lịch đại Tiên 
 vương. Phạm Bối du dương Tán Giới Định thế cho khúc Nghê Thường, Giọng 
 điệu Huế buồn lắng sâu vào bài Nhất Điện, âm thanh ray rức trong điệp  
khúc thỉnh Cô Hồn, thanh nhạc trầm hùng trong bài chú Bách Tự.


Nếu như nói Vũ Điệu Lục Cúng của Phật  
Giáo Miền Bắc là cội nguồn của vũ điệu Phật Giáo Việt Nam thì Nhạc Vũ  
Lục Cúng Hoa Đăng của Phật Giáo xứ Huế là tinh hoa của vũ đạo Phật Giáo 
 vì Vũ điệu Lục Cúng của miền Bắc chỉ có vũ đạo và âm nhạc thì ở Lục 
Cúng  Hoa Đăng của Huế kết hợp giữa âm nhạc, vũ đạo và tán tụng, đặc 
biệt hơn  nữa là sự điêu luyện và thành thục của các vũ sinh Phật Giáo 
Huế đều là  Tăng Sinh nhưng thể hiện vũ khúc này không thua gì các vũ 
công chuyên  nghiệp của Nhã Nhạc Cung Đình Huế.



Nghi lễ Phật giáo miền Trung tại Đại lễ
Nghi Lễ Phật Giáo Miền Nam với tinh thần
  tiếp thu và phát triển, nếu như nói nghi lễ Phật Giáo Miền Bắc là cội 
 nguồn, Miền trung là mầm lộc, Miền Nam là thân cành với tán lá xum xuê,
  những gì là tinh hoa của hai miền Trung và Bắc đều là chất liệu làm 
cho  cành lá nghi lễ Miền Nam được đâm chồi nảy lộc, người Miền Nam tính
 chất  của người đi mở cõi chất phát, thật thà, nghĩ sao nói vậy, có gì 
làm  nấy miễn là hết ý được rồi, lắm khi quá thật thà làm mích lòng 
người  khác.
Cho nên tán tụng Miền Nam giọng điệu rộn
  rã, âm nhạc vui nhiều buồn ít, vũ điệu thì tổng hợp của cả ba miền  
nhiều khi cho là chưa đủ lại nghiên cứu thêm Tâm Pháp Hoa Đàn của lịch  
đại Tổ Tông Mật Giáo.


Thăng Long 1000 năm nhưng Gia Định Thành
  chỉ mới hơn 300 trăm năm, cho nên lần này còn cháu Miền Nam về miền 
đất  tổ, cúng cho ông bà mình nên không nệ công sức. Làm rạng rỡ nòi 
giống  Tiên Rồng nên không ngại khó khăn, trên dưới một lòng hết tâm lo 
lắng.
Sợ liệt vị Tổ Tông không nhận ra mình  
nên cả đoàn đều đắp Ca Sa Đàn may theo lối Cà Sa của Miền Bắc. Chứng tỏ 
 sự trưởng thành nên đội mão Hiệp Chưởng Tăng Quan. Sợ chốn tổ lễ nghi  
truyền thống nên theo phép xưa con cháu ở xa về nên bái yết cha ông, nơi
  chùa Lý Triều Quốc Sư lễ Ngài Khuông Việt, lên núi Tiêu Sơn bái yết 
Vạn  Hạnh Thiền sư.



Nghi lễ Phật giáo miền Nam tại Đại lễ
Không quên công ơn Tiên Triều Đế Chúa  
dựng nước giữ nước nên tại Hoàng Thành làm lễ tế liệt vị Quân Vương. Từ 
 Bi tế độ là cốt lõi của tinh thần Đại Thừa Phật Giáo, nên thiết Vô Giá 
 Pháp Hội tế độ vong nhân, chẳng những độ cho vong nhân đất Việt, mà vận
  tâm bình đẳng phổ độ cho lịch đại các vong hồn chiến sĩ các nước tham 
 chiến trên toàn lãnh thổ Việt Nam từ quá khứ cho đến thời hiện đại, thể
  hiện lòng từ bi vô hạn.
Đàn Tràng trong thiết Trung Đài Bát Diệp
  thể nhập bi trí tánh Quán Âm, Ngoài thiết Tu Di cung điện hiện tướng  
Ngũ Thể Như Lai tỏ bày Ngũ Trí, Địa Tạng tiếp độ ở bên ngoài, Diện Nhiên
  thống lãnh Lục Đạo Pháp Giới. Ai chưa thấy cho đây là mới lạ, người 
học  nhiều hiểu hết mọi nguồn chơn, là miền xa nhất trong ba miền nên 
không  sao tránh điều sơ thất chỉ có một tấm lòng hướng về cội nguồn đất
 tổ  1000 năm.