1/ Tịnh Độ tông là Đại thừa.
Ngoài ba kinh chuyên dạy về Tịnh độ của Phật A Di Đà (Kinh Phật Thuyết Vô Lượng Thọ, Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật và Kinh A Di Đà tiểu bản)
thì nhiều kinh của Đại thừa như Hoa Nghiêm, Lăng Nghiêm, Bi Hoa….và các
luận Đại thừa Khởi Tín, Luận Ma Ha Chỉ Quán của Thiên Thai Trí giả….và
các Bồ tát khởi xướng các tông chính của Đại thừa như Trung Đạo, Duy
thức và Mật giáo đều có chỉ dạy và hâm mộ Tịnh Độ.
Từ xưa Phật giáo Việt Nam được xem là sự
hòa hợp của Thiền Tịnh Mật, trong đó tùy căn cơ mỗi người, mỗi thời đại
mà có một tông trội hơn. Cả ba đều là Đại thừa, có lẽ vì thế mà cả ba
sống hòa hợp với nhau dễ dàng. Cũng bởi vì thế mà cả ba đều có thể được
tìm hiểu, giải rõ thêm trong toàn cảnh phổ quát của Đại thừa. Nói cách
khác ba tông Thiền Tịnh Mật là đồng nguồn, đồng một con đường và đồng
một mục đích. Thế nên chẳng phải vô ích khi dùng Thiền và Mật để làm rõ
thêm những vấn đề mà chúng ta có thể còn chưa rõ ràng về Tịnh Độ. Nếu có
người vì hâm mộ tông mình mà không hiểu bỏ qua tông khác thì đó là một
điều đáng tiếc.
Trong bối cảnh đó, ở đây chúng ta nói đến tính cách tức thời, tại đây và bây giờ của Tịnh độ tông.
Thế nào là đồng nguồn, đồng con đường và
đồng một mục đích? Đồng nguồn là “Tất cả chúng sanh đều có hạt giống
Phật Tánh”, do đó đều có thể thành Phật, và sự thành Phật này sẽ dễ dàng
hơn ở Tịnh độ Tây phương. Đồng con đường là tích tập công đức và trí
huệ, với Mười Địa là con đường căn bản để thành Phật. Ba kinh Tịnh độ
đều nói đến A bệ bạt trí, tức là Vô sanh pháp nhẫn, đây là cấp độ Bất
thối chuyển được nói đến trong cả ba tông. Cấp độ đầu tiên của Mười Địa
là Sơ Hoan Hỷ địa được nói đến trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật. Từ
bước đầu thực hành đến Hạ phẩm Hạ sanh đến Thượng phẩm Thượng sanh của
kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật tương đương và đồng nhất với con đường chung
Thập Tín, Thập Trụ, Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa của Đại thừa.
Kinh nói hai phẩm Thượng phẩm Trung sanh và Thượng phẩm Thượng sanh
chính là mười địa của Đại thừa.
Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật nói: “Tưởng
sanh của Hạ phẩm Hạ sanh thì liền được sanh về thế giới Cực Lạc, ở trong
hoa sen đủ mười hai kiếp mới nở, Bồ tát Quán Âm, Bồ tát Thế Chí với
tiếng đại bi nói rộng cho nghe Thật Tướng của các Pháp và cách diệt tội.
Kẻ ấy nghe rồi vô cùng hoan hỷ, ngay đó phát tâm Vô Thượng Bồ đề”.
Chúng ta thấy được sanh về Tây phương Cực Lạc, dù ở cấp độ thấp nhất
cũng phải học Đại thừa: Đại bi, Thật Tướng của các Pháp (Trí huệ), cách
diệt tội (tịnh hóa) và phát tâm Bồ đề.
Nếu Tịnh độ là Tín Hạnh Nguyện thì Đại
thừa cũng là Tín Hạnh Nguyện. Các kinh điển của Đại thừa nhấn mạnh vào
Tin: ‘”tin hiểu, thọ trì”. Chẳng hạn kinh Kim Cương: “Nghe những câu đoạn ấy, dù chỉ một niệm sanh niềm tin thanh tịnh, thì này Tu Bồ Đề. Như Lai thấy biết trọn vẹn rằng những chúng sanh ấy được vô lượng phước đức như thế”. Kinh Hoa Nghiêm nói: ‘Tin là mẹ của các công đức’.
Hạnh ở đây là hạnh Bồ tát, tích tập công đức và trí huệ. Kinh A Di Đà nói: “Không thể dùng ít thiện căn phước đức nhân duyên mà được sanh về cõi nước ấy”. Kinh Quán Vô Lượng Thọ nói:
“Bây giờ Thế Tôn nói với bà Vi Đề Hy
rằng: giờ đây ngươi có biết không? Phật A Di Đà cách đây không xa.
Ngươi hãy buộc niệm quán kỹ nước ấy thì tịnh nghiệp thành. Nay ta giảng
rộng cho ngươi, cũng để tất cả các phàm phu đời sau muốn tu tịnh nghiệp
sẽ được sanh cõi nước Cực Lạc Tây phương. Muốn sanh nước ấy phải tu ba
phước:
Thứ nhất: Hiếu dưỡng cha mẹ, phụng sự sư trưởng, tâm từ không giết hại, tu mười nghiệp thiện.
Thứ hai: Thọ trì Ba quy y, các giới cụ túc, không phạm oai nghi.
Thứ ba: Phát Bồ đề tâm, tin sâu nhân quả, đọc tụng đại thừa, khuyên người khác tu hành tinh tấn.
Ba việc ấy gọi là Tịnh nghiệp. Ba việc ấy là chánh nhân tu hành tịnh nghiệp của chư Phật ba đời quá khứ hiện tại vị lai’.
Cũng kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật nói:
Nếu chúng sanh nào sáng suốt tin tưởng trí Phật là trí chẳng thể nghĩ
bàn, cho đến là trí tối thắng…., tu các công đức và tín tâm hồi hướng
phát nguyện về cõi ấy, thì chúng sanh này ngồi kiết già trong hoa sen
bảy báu tự nhiên hóa sanh, trong khoảnh khắc thân tướng, quang minh, trí
huệ , công đức đều thành như các Bồ tát”.
Cõi Tịnh độ của Phật A Di Đà do hạnh
nguyện, trí huệ và công đức của tỳ kheo Pháp Tạng, là tiền thân của
Ngài: “Trải qua năm kiếp , Ngài tư duy thâu nhiếp công hạnh trang nghiêm
tịnh hóa cõi Phật” Khi đã thành tựu ngài lập ra cõi Tịnh độ Tây Phương
với bốn mươi tám Lời Nguyện.
Phật A Di Đà đã tu Bồ tát hạnh và phát
các đại nguyện bền vững muôn đời để tạo lập ra cõi Tây phương Cực Lạc.
“Cõi nước Phật ấy thành tựu các công đức trang nghiêm như vậy” (Kinh A Di Đà).
Thế nên để tương ưng và sanh vào cõi ấy, và ở cấp độ cao hay thấp là do
sự tích tập trí huệ, công đức của chúng ta tương ưng với công hạnh và
đại nguyện của Phật A Di Đà nhiều hay ít. Điều chúng ta cần nhớ là sự
tích tập trí huệ và công đức này hiện thời chúng ta chỉ làm được ở cõi
Ta Bà này, như ngày xưa Phật A Di Đà đã từng làm ở đây. Thế nên lơ là
với sự tích tập trí huệ và công đức ở đây là chúng ta đã mất một cơ hội
lớn đối với hoa sen Chín Phẩm của chúng ta.
Nguyện là làm mọi tịnh hạnh, mọi công
đức để hồi hướng về Tịnh độ. Nhưng khi ở Tịnh độ đã được Không thối
chuyển thì trở lại cõi Ta Bà hay cõi khác làm Phật sự. Tịnh độ tông gọi
sự sanh qua Tịnh độ là Vãng tướng, và sự trở lại cõi này hay cõi khác là
Hoàn tướng. Như thế nguyện của một người tu Tịnh độ phải lần lần bao
trùm cả pháp giới, như Đại hạnh nguyện của Bồ tát Phổ Hiền.
Quả của Tinh độ là quả Phật. Rốt ráo
người tu Tịnh độ sẽ thành Phật, tức là đạt đến và hoàn thiện cả ba thân
của một vị Phật: Pháp thân, Báo thân và Hóa thân. Pháp thân vị ấy đồng
nhất với Pháp thân của Phật A Di Đà và của tất cả chư Phật. Báo thân và
Hóa thân của vị ấy thì căn bản đầy đủ công đức như của chư Phật, nhưng
có sai khác tùy theo hạnh nguyện của vị ấy. Quả của người tu Tịnh độ là
“trừ diệt tất cả nghiệp xấu trong vô số kiếp để sanh vào Cực Lạc” (Kinh
Quán Vô Lượng Thọ Phật). Một điều đặc biệt là người tu Tịnh độ y trên
quả Phật đã thành của Phật A Di Đà mà tu hành, cho nên Tịnh độ tông được
xếp vào Quả thừa thay vì Nhân thừa
Sự đồng nguồn, đồng con đường và đồng mục đích của Thiền, Tịnh, Mật, chúng ta trích đoạn kinh trong Quán Vô Lượng Thọ Phật:
“Tiếp theo là nên tưởng Phật. Tại sao
phải tưởng Phật? Bởi vì chư Phật Như Lai là Thân Pháp Giới, vào trong
tâm tưởng của tất cả chúng sanh. Thế nên khi tâm người ta tưởng Phật,
thì ngay tâm ấy tức là 32 tướng, 80 vẻ đẹp tùy hình. Tâm ấy làm Phật thì
tâm ấy là Phật. Biển Chánh Biến Tri của chư Phật, từ nơi tâm tưởng mà
sanh, bởi thế phải nên nhất tâm buộc niệm quán tưởng Đức Phật Như Lai
ấy”.
2/ Ý nghĩa của sự việc ‘đang sanh’ về Tịnh độ.
“Thân Pháp Giới”, “Tâm ấy là Phật”,
“Biển Chánh Biến Tri của Chư Phật”, là Pháp thân đồng nhất, hoàn toàn
không khác biệt của tất cả các chư Phật. Không có chuyện của Pháp thân
của Đức Phật này ‘to lớn’ hơn Pháp thân của vị Phật kia. Pháp thân là sự
vô ngại tuyệt đối giữa các đức Phật.
Nhưng Báo thân, Hóa thân của các Ngài
thì có khác vì hạnh nguyện khi còn là Bồ tát thì khác nhau. Nhưng vì Báo
thân và Hóa thân lưu xuất từ Pháp thân nên chúng vô ngại với nhau và vô
ngại đối với mọi cõi. Một ví dụ là Đức Quán Thế Âm ở với Phật A Di Đà
nơi Tịnh độ Tây phương, nhưng Ngài vẫn làm việc cứu độ ở cõi này một
cách vô ngại. Như vậy Phật A Di Đà và Tịnh độ của Ngài vẫn vô ngại với
cõi này. Ở đây chúng ta trích vài lời nguyện:
Lời nguyện thứ 12: Khi thành Phật, nếu
quang minh thân tôi mà có hạn lượng, ít ra chẳng soi đến hàng trăm ngàn
ức vô số cõi Phật, thì tôi sẽ không nhận ngôi Chánh Giác.
Lời nguyện thứ 34: Khi thành Phật, những
chúng sanh trong khắp mười phương vô lượng vô số thế giới nghe danh
hiệu tôi mà chẳng chứng được Vô sanh Pháp nhẫn và các môn tổng trì sâu
xa của Bồ tát, thì tôi sẽ không nhận ngôi Chánh Giác.
Lời nguyện thứ 45: Các chúng Bồ tát ở
cõi nước khác nghe danh hiệu tôi thảy đều chứng được tam muội Phổ Đẳng,
an trụ trong tam muội đó cho đến khi thành Phật, thường thấy vô lượng vô
số tất cả chư Phật. Nếu chẳng như thế thì tôi chẳng nhận ngôi Chánh
Giác
Sự vô ngại giữa các cõi với nhau là điều
được nói đến trong kinh điển Đại thừa. Tịnh độ Tây Phương và Phật A Di
Đà vô ngại với cõi này, nên chúng ta mới niệm Phật, quán tưởng, phát
nguyện, lập hạnh, hội hướng….để có thể tiếp thông được với Phật và Tịnh
độ. Nếu không vô ngại thì niệm Phật và quán tưởng sẽ không có nền tảng
nào để có hiệu quả.
Bốn mươi tám lời nguyện của Phật A Di Đà
thể hiện sự vô ngại của Ngài và cõi Tịnh độ của Ngài đối với toàn bộ
Pháp giới. Bởi thế niệm Phật và quán tưởng Phật là dành cho chúng sanh ở
mọi cõi. Chính sự vô ngại này cho phép chúng ta tiếp xúc được, kết nối
được với Tịnh độ và sự tiếp xúc kết nối có thể trở nên trực tiếp. Ba
thân của Phật A Di Đà là vô ngại với toàn thể Pháp giới nên mỗi chúng
sanh trong Pháp giới đều có thể tiếp xúc, kết nối, tương ưng trực tiếp
với Ba thân ấy.
Niệm Phật, quán tưởng Phật…. là đưa Phật
A Di Đà và Tịnh độ vào trong thân tâm của chúng ta, tiếp nhận Phật và
Tịnh độ vào trong thân tâm của chúng ta. Sự đưa vào, tiếp nhận này khiến
cho chúng ta có được Tịnh độ. Đời sống ở cõi này của chúng ta ‘in hình’
Tịnh độ.Để hiểu ‘in hình’ là thế nào, chúng ta trích hai đoạn trong
kinh Vô Lượng Thọ Phật:
“Dù mắt nhắm hay mở, không nên để (cho
sự quán tưởng) tan mất, luôn luôn nhớ tưởng cõi Tịnh độ. Người quán
tưởng được như vậy gọi là thấy thô sơ đất nước Cực Lạc”.
“Nay Như Lai dạy cho bà Vi Đề Hy và thảy
hết chúng sanh đời sau quán tưởng thế giới Cực Lạc Tây phương. Nhờ Phật
lực mà sẽ thấy cõi nước thanh tịnh kia, như cầm cái gương sáng tự thấy
mặt mình. Thấy các sự việc cực diệu cực lạc của cõi nước ấy, tâm rất
hoan hỷ, liền ngay lúc ấy đắc Vô sanh Pháp nhẫn”.
Dù chỉ mới “thấy thô sơ cõi Cực Lạc”
trong hai pháp quán tưởng đầu tiên, Tịnh độ đã in hình vào trong tâm
chúng ta, để từ đây chúng ta được chuyển hóa, được hưởng phần Tịnh độ.
Tâm chúng ta bắt đầu thanh tịnh. Chúng ta bắt đầu thấy cuộc sống chung
quanh, mọi người “thân thể đều đồng một sắc vàng” (Kinh Phật thuyết Vô Lượng Thọ Phật), “chim chóc cây cối đều thuyết pháp vì đều là báo thân của Phật A Di Đà” (Kinh A Di Đà). Cuộc sống chúng ta ở cõi này bắt đầu đi vào Tịnh độ. Tịnh độ bắt đầu nhiếp lấy cuộc đời Ta Bà của chúng ta.
Nếu so sánh với Mật giáo, khi chọn Phật A
Di Đà làm bổn tôn, thì sự quán tưởng là : thế giới sắc tướng chung
quanh là mạn đà la của Phật A Di Đà, tất cả âm thanh là thần chú hay
danh hiệu Phật A Di Đà, thân thể này cũng được quán tưởng là sắc thân
của Phật A Di Đà….Tóm lại tất cả thân tâm và thế giới của chúng ta đều
được A Di Đà hóa và Tịnh độ hóa để thành Tây phương Cực Lạc.
Cõi Phật A Di Đà không ngăn ngại với
chúng ta mà chỉ vì những phiền não chướng và sở tri chướng, gọi chung là
nghiệp chướng (sự che chướng của nghiệp), của chúng ta ngăn che chúng
ta với Tịnh độ. Thế nên một trong những mục đích của pháp quán tưởng của
Kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật là để ‘”trừ diệt hết tội”. Kinh cũng có tên
là “Tịnh trừ nghiệp chướng, sanh chư Phật tiền” (Tịnh hóa và trừ diệt nghiệp chướng, sanh trước chư Phật).
Chúng ta cũng thấy mọi pháp tu của Đại
thừa, của Thiền và Mật, đều là để diệt trừ hay tịnh hóa phiền não chướng
và sở tri chướng, nghĩa là mọi nghiệp chướng, để thấy và chứng được
Phật tánh,tức là thấy và chứng được “thật tướng của các pháp”, hay còn
được diễn tả là “thấy Như Lai” (trong kinh Kim Cương).
Vì bị trói buộc trong vô minh và những
nghiệp chướng, bèn cho thời gian không gian là thật, là cứng chắc chướng
ngại thật sự, không thể thấy tánh Không của chúng, nên người bình
thường cho rằng Phật và Tịnh độ ở xa, xa lắm. Nhưng như Phật Thích Ca đã
nói trong kinh Quán Vô Lượng Thọ Phật đã trích dẫn ở trên: “Phật A Di
Đà cách đây không xa”.
Sự sanh vào Tịnh độ là một sự việc xảy ra ở hiện tại. Kinh A Di Đà nói: “Xá Lợi Phất! Nếu có người đã phát nguyện, đang phát nguyện,
sẽ phát nguyện muốn sanh vào cõi nước Phật A Di Đà thì những người ấy
đều được Bất thối chuyển nơi Chánh đẳng Chánh giác. Trong cõi nước ấy
hoặc đã sanh, hoặc sẽ sanh, hoặc đang sanh. Thế nên, Xá Lợi Phất, các thiện nam tín nữ hãy nên tin tưởng phát nguyện sanh vào cõi nước ấy”.
Sự sanh vào là một dòng tương tục từ quá
khứ đến tương lai và đang xảy ra trong hiện tại. Khi niệm Phật, quán
tưởng, hồi hướng….là chúng ta “đang sanh” vào Tịnh độ, đang đi vào Tịnh
độ. Bằng những thực hành ấy chúng ta đang đi sâu hơn vào Tịnh độ, hay
nếu dùng thuật ngữ Tịnh độ, chúng ta đang đi lên các bậc Cửu Phẩm ngay ở
đây và lúc này. Chánh niệm tịnh giác với sự việc đang sanh này là niềm
vui và hạnh phúc hiện tại của chúng ta.
Có người vì không hiểu Thiền, và do đó
không hiểu cả Tịnh độ, khi đọc xong phần cuối của phẩm Quyết Nghi trong
kinh Pháp Bảo Đàn, cho rằng Lục tổ Thiền tông bác bỏ Tịnh độ Tây phương.
Đọc kỹ chúng ta sẽ thấy Lục tổ không bác bỏ Tịnh độ mà ngài chỉ nói
rằng cõi này và Tịnh độ không cách xa, cõi này và Tịnh độ dung thông vô
ngại với nhau. Sự dung thông vô ngại này là do sự thanh tịnh của tâm.
Ngài trích một câu của kinh Duy Ma Cật: “Tùy tâm mình thanh tịnh thì cõi Phật thanh tịnh” Ngài nói:
“Nếu tâm của Sử quân không điều gì chẳng
lành, thì Tây phương cách đây chẳng xa. Nếu như ôm giữ cái tâm chẳng
lành, thì dầu có niệm Phật, cầu vãng sanh cũng khó đến đó được….Nay ta
khuyên các thiện tri thức trước phải trừ 10 điều xấu ác tức là đi được
10 vạn dặm, sau trừ 8 điều tà tức là qua khỏi 8 ngàn dặm. Niệm niệm thấy
tánh (Phật tánh), luôn luôn thực hành cái tâm bằng phẳng, thì đi đến
Tây phương nhanh chóng như khảy móng tay mà thấy Phật A Di Đà liền”.
“Phật tánh giác ở trên cõi tự tâm, phóng
ra ánh sáng lớn, ngoài soi sáu cửa thanh tịnh, phá hết các trời Lục
dục, chiếu vào tự tánh, ba độc dứt liền, các tội địa ngục thảy đều tiêu
diệt, trong ngoài sáng suốt không khác gì cõi Tây phương. Nếu chẳng tu
theo pháp ấy thì làm sao đến cõi kia được!”
Quả thật, sự khó khăn ngăn ngại không
phải ở phía Phật A Di Đà mà ở về phía chúng sanh chúng ta. Cũng như gã
cùng tử lang thang lạc loài trong kinh Pháp Hoa, sự khó khăn ngăn ngại
trong việc trở về với cha mình không phải về phía người cha trưởng giả
giàu có an cư lạc nghiệp muôn đời, mà từ phía gã cùng tử. Sự khó khăn
ngăn ngại xa cách của gã cùng tử này là sự nghi ngờ, mặc cảm, quen thói
nghèo hèn lang thang, dơ bẩn, suy nghĩ lặt vặt, ti tiện, tà kiến….Chính
những bệnh tật trong tâm này làm cho đường về trở nên khó khăn, chướng
ngại, trong khi con đường vốn thông suốt, vô ngại.
3/ Sống trong đại dương Bốn mươi tám lời nguyện.
Con đường về ấy là dễ dàng. Chúng ta có
thể tiếp xúc, kết nối, tương ưng với Ngài và Tịnh độ của Ngài, nghĩa là
với Pháp thân, Báo thân và Hóa thân của Ngài. Pháp thân là Tâm, Báo thân
là Ngữ và Hóa thân là Thân,của Phật A Di Đà. Pháp thân vô niệm, vô
tướng, vô trụ của Ngài thì ở khắp tất cả. Báo thân và Hóa thân của Ngài
là Tịnh độ và 48 lời nguyện trùm khắp vũ trụ. Thật ra chúng ta có là gì,
đang ở đâu, như thế nào, chúng ta luôn luôn ở trong Pháp thân Báo thân
và Hóa thân của Phật A Di Đà. Và chúng ta có thực hành niệm Phật, quán
tưởng, phát nguyện…như thế nào thì cũng là thực hành trên Quả Phật Đã
Thành, trên 48 Lời Nguyện Đã Thành của Đức A Di Đà.
Chúng ta có thể tiếp xúc trực tiếp, tức
thời với Ngài và Tịnh độ của Ngài, không chỉ vì Tha lực trực tiếp tức
thời của Ngài bao trùm cả vũ trụ, mà còn vì chúng ta cũng có các hạt
giống hay tiềm năng Pháp thân, Báo thân và Hóa thân của mỗi chúng ta.
Tiềm năng Pháp thân, Báo thân, Hóa thân này là tiềm năng Tâm, Ngữ, Thân
của chúng ta.. Có điều Pháp, Báo và Hóa thân của chúng ta chưa được
khai mở, tịnh hóa và hoàn thiện, thành thử sự tương ưng, tiếp xúc, kết
nối chưa có được hay có được thì lâu lâu mới thoáng qua một cách yếu ớt.
Chính vì tiềm năng Ba thân này, tiềm năng Phật tánh này nơi mỗi chúng
sanh nên chúng ta mới đam mê, khát khao, tín ngưỡng Phật A Di Đà và Tịnh
độ của Ngài đến như vậy.
Bằng việc niệm Phật, quán tưởng, làm các
công đức, thân, ngữ, tâm chúng ta dần dần tương ưng với Thân, Ngữ, Tâm
của Phật A Di Đà. Bằng niệm Phật và quán tưởng, bằng tin, hạnh, nguyện,
hồi hướng…., những chướng ngại ngăn che của chúng ta và do chúng ta
khiến ngăn cách với Ba thân của Phật dần dần tan rả. Thân Ngữ Tâm của
chúng ta có thể tức thời trực tiếp tương ưng với Thân Ngữ Tâm của Phật A
Di Đà tùy theo sự trực tiếp tức thời, sự không bị che chướng của thân
ngữ tâm chúng ta.Với sự dần dần tương ưng,cõi Ta Bà của chúng ta mà
chúng ta đang sống sẽ dần dần ‘vô ngại’ với Cực Lạc phương Tây.
Bằng niệm Phật, quán tưởng, tin, hạnh,
nguyện, hồi hướng….trong Tha Lực (48 lời nguyện đang bao quanh chúng
ta), chúng ta nhanh chóng chuyển hóa, tịnh hóa thân tâm mình. Tùy thân
tâm mình tịnh hóa đến đâu, chúng ta cảm nghiệm, tương ưng được với Tịnh
độ đến đó. Cũng chính thân tâm thanh tịnh của chúng ta quyết định chúng
ta sanh vào phẩm nào trong Chín Phẩm, tương đương Mười Địa chung cho cả
Đại thừa.
Cho nên hãy đưa Phật A Di Đà và Tịnh độ
vào trong thân ngữ tâm của chúng ta. Hãy tiếp nhận Phật A Di Đà và Tịnh
độ vào trong thân ngữ tâm của chúng ta. Sự đưa vào đó, sự tiếp nhận đó,
chính là Tự lực. Tự lực để sống trong Tha lực của Phật A Di Đà, tức là
trong 48 lời nguyện đã thành. Trong nền tảng Phật tánh, Tự lực và Tha
lực vốn không ngăn ngại, vốn tức thời, trực tiếp, tại đây và bây giờ.
Để mỗi tiếng niệm Phật là một lời ca hát
của Cực Lạc trong lòng chúng ta. Để mỗi quán tưởng là một hiện hình của
Cực Lạc trong lòng chúng ta…
Như thế chúng ta đã có Phật, có Tịnh độ.
Như thế chúng ta đã bắt đầu kết nối với Phật và Tịnh độ. Và mở rộng
Phật và Tịnh độ ở trong lòng chúng ta để cho Phật và Tịnh Độ chiếm lấy
toàn bộ đời sống của chúng ta, phải chăng đó là công việc hân hoan “Tịnh
trừ nghiệp chướng, sinh ra ở trước chư Phật”?
Nguyễn Thế Đăng
Tuần báo Giác Ngộ số 568
(Ảnh minh hoa: Lễ Hội Hoa Đăng Vía Phật Di Đà tại chùa Hoằng Pháp, Hốc Môn 2010)