Tôn
giáo, dù nhất thần, đa thần hay thậm chí vô thần, đều ít nhiều hướng
dẫn các cách thức trợ giúp người ra đi và gia quyến của họ. Phật giáo,
khi mới thành lập, không hướng dẫn lễ cầu nguyện mà chỉ dạy cách trợ
niệm cần thiết để giúp người sắp chết ra đi nhẹ nhàng theo nghiệp; nhưng
khi Phật giáo được truyền sang các nước có nền văn hóa Khổng, Lão như ở
Trung Quốc và Việt Nam… thì việc cầu nguyện cho người chết trở nên
không thể thiếu, đặc biệt là Phật giáo Tịnh độ. Trong bối cảnh hầu hết
các chùa ở Việt Nam đều theo tông Tịnh độ và các tín đồ có niềm tin Phật
giáo đều mong muốn có nghi lễ cầu nguyện của Phật giáo trong lễ tang
của người thân, người viết xin được đề cập về “Ảnh hưởng Phật giáo trong
lễ tang người Việt”. Trong phạm vi này, bài viết sẽ nêu ra một số ảnh
hưởng tích cực cũng như sự hạn chế của Phật giáo trong quá trình thích
nghi. Từ đó, một số ý kiến cá nhân đưa ra như là sự tham khảo nhằm khắc
phục những điểm bất cập và phát huy vai trò của đạo Phật trong nền văn
hóa dân tộc Việt.
Có thể khẳng định
rằng Đức Phật không dạy một nghi thức cầu nguyện nào về lễ tang, ngoại
trừ những bài kinh có nội dung trợ niệm cho người sắp qua đời. Sự thật
này được tất cả các truyền thống Phật giáo chấp nhận. Tuy nhiên, các
nghi lễ cầu nguyện dành cho lễ tang lại được chư Tổ soạn ra nhằm mục
đích phục vụ nhu cầu tín ngưỡng quần chúng và làm phương tiện độ sanh.
Tồn tại cùng với nền văn hóa bản địa ở Trung Quốc cũng như Việt Nam, các
tôn giáo ngoại nhập buộc phải thích nghi để tồn tại và một trong những
thích nghi quan trọng là nghi lễ cầu nguyện. Mặc dù vậy, nghi lễ Phật
giáo lại không đóng vai trò nòng cốt trong một lễ tang của tín đồ Phật
tử Việt Nam mà nó chỉ chiếm một phần nhỏ quan trọng trong nhiều yếu tố
pha trộn bao gồm tôn giáo và tập tục. Vậy thì, ảnh hưởng của Phật giáo
trong lễ tang như thế nào?
Về hình thức
Thông thường khi một tín đồ Phật giáo sắp qua đời, họ thường thỉnh Tăng
Ni đến để hộ niệm. Việc làm này là hợp với lời Phật dạy dù cách thức có
khác. Tuy nhiên, trường hợp không mời được Tăng Ni đến thì phần lớn tín
đồ không biết cách thức hộ niệm cho người thân của mình. Có thể nói đây
là một điều thiếu sót của Phật giáo trong việc hướng dẫn tín đồ Phật
tử, và một phần do quan niệm đề cao năng lực cứu độ của người xuất gia.
Khi có người qua đời, công việc đầu tiên mà người thân chuẩn bị cho lễ
tang là xem ngày giờ, thậm chí tuổi tác kỵ, hạp. Công việc này nhiều nơi
là do chính Tăng Ni thực hiện. Sau khi chuẩn bị các thủ tục và vật dụng
cần thiết xong, Tăng Ni được thỉnh đến cử hành lễ nhập liệm. Nhập liệm
xong, một án thờ được thiết lập trước quan tài với tấm phủ nghi phía
trước (hoặc thêm bức thờ tùy địa phương) có những dòng chữ Hán nói về sự
đau buồn và về đạo hiếu, tình nghĩa vợ chồng… Ngoài ra, một lá triệu
(còn gọi là minh tinh) và vàng mã cũng được chuẩn bị. Trong thiết trí,
một điều không thể thiếu liên quan đến Phật giáo là thiết lập bàn thờ
Phật để tụng kinh cầu nguyện.
Như
vậy, về hình thức, lễ tang biểu hiện có sự ảnh hưởng của Phật giáo qua
ba yếu tố gồm hình tượng Phật hay Bồ-tát, sự hiện diện của chư Tăng Ni
hay cư sĩ Phật tử, và lời kinh Phật được tán tụng. Trong ba yếu tố trên
thì sự hiện diện của chư Tăng Ni là yếu tố quan trọng nhất biểu hiện sự
ảnh hưởng của Phật giáo trong lễ tang. Kế đến là sự có mặt của cư sĩ
(khi không có Tăng Ni) và sau cùng là chỉ có hình tượng Phật hay Bồ-tát.
Thông thường, hình tượng Phật chỉ được tôn trí khi có sự hiện hiện của
Tăng Ni hay cư sĩ, nên yếu tố con người hành lễ luôn quyết định. Ngoài
ra, các yếu tố khác được xem là quan trọng trong lễ tang như chọn ngày
giờ tốt, kỵ tuổi tác, mặc đồ tang, đốt vàng mã, khóc than, lễ lạy, v.v…
đều là tập tục hay sự ảnh hưởng từ tôn giáo khác. Như vậy, nếu lễ tang
không có Tăng Ni hay cư sĩ đến tụng niệm thì yếu tố Phật giáo hầu như
vắng mặt.
Về nội dung
Một yếu tố quan trọng hơn biểu hiện sự ảnh hưởng tích cực của Phật giáo
trong lễ tang là nội dung đóng góp của nó. Khi một người thân qua đời,
gia quyến thường bối rối vì một phần bị tình cảm chi phối và một phần do
không rành các tập tục quy định. Hơn nữa, sự đau buồn thương tiếc và
lòng hiếu thảo hay ân nghĩa luôn thúc giục họ làm điều gì đó hữu ích cho
người quá cố, và sự siêu độ hay vãng sanh là điều họ mong muốn. Do đó,
Tăng Ni luôn là điểm đầu tiên họ tìm đến nương nhờ. Sự có mặt của Tăng
Ni và sự hướng dẫn nhiệt tình, khôn khéo của họ sẽ giúp cho gia quyến an
ủi phần nào và tạo cho họ cũng như những người xung quanh những hình
ảnh đẹp về Phật giáo. Đó là nội dung “pháp sinh động” của đạo Phật đang
được tuyên dương.
Trong suốt lễ tang
từ khi liệm, cúng cơm cho đến hạ huyệt, nhiều bài kinh được tán tụng để
cầu nguyện. Có lẽ không sai khi nói rằng hiếm ai đủ tập trung để nghe
và hiểu hết ý nghĩa những lời kinh Phật được trì tụng trong suốt thời
gian lễ tang cho dù nó được dịch ra tiếng Việt. Huống chi, kinh điển trì
tụng thường là âm Hán - Việt và thường Tăng Ni không giảng giải ý nghĩa
trước khi trì tụng. Hiếm lắm mới có trường hợp thuyết linh nhưng đó
cũng chỉ là cách “chữa lửa”. Do vậy, ảnh hưởng của Phật giáo không phải
là do nội dung các bài kinh được tụng mà là “những bài pháp sống động”
do chính Tăng Ni thể hiện qua tam nghiệp của họ. Nếu tam nghiệp thanh
tịnh thì họ sẽ cảm hóa được cả người mất lẫn kẻ còn, bằng ngược lại thì
hiệu quả khó đoán biết.
Những điều suy ngẫm
Như trên vừa trình bày, ảnh hưởng Phật giáo trong lễ tang chỉ phát huy
khi Tăng Ni hay ít nhất là các cư sĩ trong ban hộ niệm có mặt. Vậy là
nếu các lễ tang thiếu hình bóng họ thì cũng có nghĩa rằng không có hay
có rất ít sự ảnh hưởng của Phật giáo, dù cho gia đình ấy có niềm tin đạo
Phật. Rõ ràng, Tăng Ni không thể nào đủ để đảm trách việc tang ma với
số lượng tín đồ Phật tử như hiện nay, và nhất là không thể nào có mặt
kịp thời để hộ niệm tất cả tín đồ sắp qua đời. Vả lại, không lẽ sự
nghiệp của người xuất gia là chỉ chờ làm công việc ấy thôi sao?! Điều
đáng nói nữa là nhiều gia đình mời Tăng Ni đến nhưng không hoàn toàn tin
tưởng năng lực hộ niệm của Tăng Ni và giáo lý nhân quả của đạo Phật nên
họ buộc các Tăng Ni phải theo giờ giấc khắt khe mà họ đã đi xem trước.
Từ đó, mức độ ảnh hưởng của Phật giáo có thể suy biết được.
Lại nữa, chúng ta hay tự hào đạo Phật một thời là quốc giáo và có ảnh
hưởng nhiều nhất trong nền văn hóa dân tộc Việt, nhưng sự ảnh hưởng của
Phật giáo trong nền văn hóa dân tộc như thế nào lại là điều đáng suy
ngẫm. Trong tất cả các lễ hội thì đạo Phật, như một sự mặc định, có sự
gắn kết với lễ tang nhiều nhất. Sự mặc định cao đến độ hễ thấy Tăng Ni
đi đến đâu thì người ta thường nghĩ là có người đã hoặc sắp qua đời ở
nơi đó! Vậy mà, qua lễ tang của tín đồ Phật tử, ta thấy hầu như là các
phong tục tập quán, thậm chí là mê tín, vẫn chiếm phần lớn. Đây có phải
là điều đáng suy ngẫm không?!
Giải pháp nào
Đạo Phật vốn độ sanh chứ không phải độ tử nhưng ngày nay thì kiêm cả
hai. Tuy nhiên, cốt tủy của đạo Phật vẫn phải là độ sanh và do đó phải
đi theo hướng này. Muốn vậy, Phật giáo cần tập trung chú trọng vào người
đang khỏe mạnh để hướng dẫn họ đi đúng Chánh pháp hơn là chỉ phục vụ
tín ngưỡng. Khi họ có niềm tin kiên cố vào Chánh pháp thì tất yếu họ sẽ
theo các nghi thức Phật giáo để tổ chức lễ tang mà không phải lo sợ. Một
nghi thức Phật giáo cần có để tất cả cư sĩ Phật tử nương theo thực hành
khi chưa hay không có Tăng Ni . Nó cần có những nội dung hướng dẫn rõ
ràng từ cách thức tổ chức đến các kinh trì tụng, bắt đầu từ khi hấp hối
cho đến an sàng. Phật giáo thừa sức làm việc này.
Đối với những người chỉ tìm đến đạo Phật khi có hữu sự thì cần thiết
phải xác định niềm tin của họ đối với Phật giáo và Tăng Ni . Một khi đã
tin tưởng Tăng Ni thì nhất thiết phải tuân theo sự hướng dẫn của họ để
tổ chức lễ tang. Những người này sẽ trở thành cư sĩ Phật tử tương lai
nếu họ thấy được giá trị đạo Phật thông qua phẩm hạnh của Tăng Ni trong
suốt lễ tang. Do vậy, cần phải đào tạo những Tăng Ni có khả năng và có
từ tâm thay vì thực dụng, tức thời. Chưa cần phải thuyết pháp hay, những
Tăng Ni này đã và đang làm công việc hoằng pháp hữu hiệu một cách bất
ngờ. Sự ảnh hưởng của Phật giáo trong lễ tang như thế không đáng quý
sao!
Thích Hạnh Chơn