“Tất cả nước biển đều thuần một vị, vị mặn. Tất cả giáo lý của ta chỉ thuần một vị, vị giải thoát”, lời Phật dạy.
Thế
nhân thường mệt mỏi với vấn đề “giải thoát”, bởi nó cao siêu quá. Con
người chúng ta đã sẵn bản năng lười biếng, đâm ra ngao ngán hay hoảng sợ
trước chân trời bát ngát đầy những kỳ hoa dị thảo. Tuy biết sắc hương
hoa cỏ ngạt ngào mỹ lệ, nhưng lại ngại tầm tay mình ngắn ngủi khó vói
đến, mắt mình phàm tục khó nhận định khó tận hưởng những nét đẹp linh
kỳ!
Nhưng thật ra, với một tinh thần cầu tiến, chắc chắn chúng ta
sẽ đi đến bảo thành “giải thoát”, khi chúng ta quyết y cứ theo lời chỉ
dạy của đức Bổn Sư. Biết bao lần chúng ta chìm nổi trôi giạt, đau khổ
trong sáu đường. Kiếp này may mắn được thân người lại có duyên gặp Phật
pháp chẳng lẽ chúng ta lại bỏ qua cơ hội ngàn năm một thuở, để cởi mở
gông cùm từ vạn kiếp để cùng đưa nhau đến một chân trời tự do quang đảng
mới lạ hay sao?
Vậy tự do của Phật giáo là gì ? - Là mầm giải
thoát là nấc thang đưa lên lầu giải thoát. Phật giáo chú trọng cảnh tỉnh
cho chúng sanh tự giác. Nghĩa là đánh lên những hồi chuông thức tỉnh để
mọi người biết hồi đầu hối lỗi, thật tâm kiểm điểm lại bản thân để cải
thiện sự sống.
Tất cả những mong cầu quay về cố quán được phát
xuất tự đáy lòng chúng ta, chớ không phải vì bị bắt buộc. Cố ép lòng
hướng thiện, việc làm ấy chỉ có một giá trị cạn cợt, chưa hẳn đúng theo ý
nghĩa tự do. Vì khi nói đến tinh thần tự do là chúng ta đã bước chân
lên nấc thang giác ngộ, giải thoát.
Từ cổ chí kim, chúng ta chưa từng thấy Phật giáo bắt buộc ai nhắm mắt tin theo giáo điều của Ngài. Tự do đi từng giai đoạn.
TỰ DO ĐẾN ĐẠO - Ngày xưa thuở Phật còn tại thế, có những người đến xin quy y, Phật không nhận ngay. Ngài dạy:
- “Tin ta mà không hiểu ta là bài báng ta”.
Nghe
lời giới thiệu mà theo Phật chưa hẳn là một Phật tử chân chánh. Đức
Phật hằng dạy cho mỗi người đến với Ngài ý thức rằng: Ham mộ Ngài không
chưa đủ, cần phải có trí tuệ xem xét hiểu biết Ngài rồi sẽ theo Ngài.
Phàm khi bước chân vào Phật giáo là phải Quy Y Tam Bảo, đồng thời vâng
giữ ngũ giới. Chữ giới có nghĩa là răn cấm, cũng có nghĩa là giải thoát.
Bởi vì giữ được một giới, chúng ta được tự do giải thoát một phần. Vậy
giữ giới là vì lợi ích cho chính ta, chớ Phật không có bắt buộc. Nếu vô
cớ giết người, hoặc trộm cắp, lang trạ dối tra, điêu ngoa, rượu trà be
bét, dù đức Phật không cấm ngăn đi nữa, người phạm giới phải đã tự hạ
nhân phẩm mình, bị xã hội rẻ khinh, hoặc ngục tù chờ đợi.
Phương chi, khi mỗi người phát tâm đi đến với đạo là tự do chọn lấy
con đường, tùy khả năng, hoàn cảnh của mình mà lãnh thọ giới pháp. Nhưng
khi lãnh giới rồi phải bền gan giữ gìn thanh tịnh để cổi mở những sợ
dây tội lỗi, đau khổ sau này.
Một hôm, có ông lão Tu-bạt-đà-la thuộc dòng Phạm chí đến Phật:
-
Bạch Ngài, lâu nay con đến chúng Ni-kiền-tử, chúng Mạc-già-lê, chúng
Tán-nhã-đa v.v... ai ai cũng cho đạo mình là thâm diệu hợp lý. Giờ đây,
Thế Tôn cũng nói giáo pháp của Ngài là giải thoát an lạc, con còn biết
phải theo bên nào ? Đừng theo ai cả. Ông hãy đem pháp “Bát chánh đạo”
của ta ra so sánh với các giáo phái khác. Và khi nhận xét bên nào có lợi
ích thiết thực cho ông, cho mọi người, cùng hợp chân lý ông hãy theo.
Sau đó, đức Phật đã nhận ông Tu-bạt-đà-la làm người đệ tử cuối cùng.
Đức
Phật đã rộng rãi cho chúng ta đem giáo lý Phật so sánh các giáo lý đạo
khác. Nhưng, nếu chúng ta chưa hiểu được phần giáo lý căn bản, sự học
tập chưa có một nền tảng chắc chắn mà sớm muốn làm việc so sánh thật là
một điều vô nghĩa.
Đức Phật đã từng dạy: “Tất cả chúng sanh đều
có Phật tánh”. Đừng tưởng mình là cao cả, đặt mình lên trên mà khinh rẻ
hay ganh ghét kẻ khác, hoặc bắt buộc họ làm theo ý kiến mình, làm như
thế là thiếu tinh thần tự do.
TỰ DO CĂN CỨ TRÊN NHÂN QUẢ - Đức
Phật luôn luôn nhắc: “Ta không có quyền ban phúc giáng họa cho ai. Ta
chỉ là ông thầy đưa đường cho chúng sanh vượt qua tai ách, là vị lương y
chữa bệnh đau khổ cho người, nếu chúng sanh chính chắn làm theo lời ta
chỉ dẫn”.
“Tự tác hoàn tự thọ”. Chính con người đã gây đau khổ,
gom nhóm đau khổ và cũng chính con người đủ can đảm tự gỡ lấy những đau
khổ thâm trọng súc tích trong bao đời trước và hiện tại của mình. Muốn
được giải thoát, con người phải biết xét đoán hành vi và tư tưởng của
mình, đừng trốn tránh trách nhiệm, đừng tìm kiếm lý này lẽ khác để che
đậy những việc làm, lời nói lệch lạc, sái quấy của mình. Đừng ngồi ỳ ra
đó, buông lung theo năm dục và dại khờ chờ đợi sự cứu vớt của Phật của
thầy.
Xưa kia, có người vừa tắt thở bị quỉ sứ dắt đến Diêm-vương, Diêm-vương hỏi:
- Khi còn sống, ngươi không thấy những người đau yếu quanh ngươi để nghĩ đến ngày nay cải ác tu thiện sao ?
Tâu Diêm-chúa: - Vì tôi ngu mê quá, nên không nghĩ đến.
Lần
lượt theo lời cật vấn của Diêm-vương qua năm tin tóc bạc, răng rụng...
cho đến chết chóc, chàng ta đều thú nhận, tuy có thấy nhưng vì ngu mê
không suy nghĩ đến để cải ác tu thiện... Diêm-chúa kết luận: “Vậy tội
trạng của ngươi gây nên là chính tại ngươi, không phải do cha mẹ anh em
hay quỉ thần nào tạo”.
Vậy tất cả khổ đau tập hợp bao đời dày
đặc, do chúng ta lười biếng để nó đâm chồi mọc rễ, chớ nào phải tại
người khác hay cha mẹ, vợ con, anh em, bè bạn mang đến cho ta đâu?
Chúng
hãy chịu khó mở mắt ra nhìn, đừng ngu mê như anh chàng kia đến sau rồi
hối hận không kịp. Chỉ có sự giác ngộ, sự tu tỉnh mới đem được nguồn an
lạc cho ta ngày nay và ngày mai.
Một hôm, Tôn giả Xá-lợi-phất về
cố hương đến viếng thăm bạn thân là ông Phạm-chí Đà-nhiên (Dhanan-jani).
Bình nhật ông ta vốn tham lam khắc khổ với tôi tớ, người tá điền. Tôn
giả vì muốn cảnh tỉnh bạn, nên đến nhằm lúc ông đang đánh đập những
người canh điền.
Đôi mắt hiền lành nhưng sáng suốt uy nghiêm của Tôn giả như khiển trách khiến người bạn dừng tay.
- Sao ông nhẫn tâm hành hạ người canh điền như vậy ? Ông không sợ tội ư ?
Ông Phạm chí ngượng ngập đáp:
-
Thưa Tôn giả, Tôn giả đã xuất gia có quyền sợ tội. Riêng tôi còn cha
mẹ, vợ con, họ hàng. Tôi phải đóng góp thuế má cho quan. Chẳng hành hạ
gắt gao với chúng, chúng lười biếng dể ngươi, không làm việc tận lực,
làm sao tôi đủ để đóng góp sưu thuế, nuôi dưỡng cha mẹ, vợ con ?
-
Như có người đi ăn trộm, bị lính bắt điều tra, kẻ trộm lấy cớ vì cha mẹ
già nên phải đi ăn trộm để có tiền nuôi dưỡng cha mẹ... Nếu trong
trường hợp ấy thử hỏi nhà cầm quyền có tha kẻ trộm ấy chăng ?
Câu
chuyện trên đây dạy chúng ta ý thức rằng” nên ý thức việc làm chúng ta
lành hay dữ, đừng viện cớ này cớ nọ để che đậy tội ác. Chính tự chúng ta
tạo lấy ngục thất hay cảnh cực-lạc.
Cõi người hưởng phước hơn
súc sanh, ngạ quỉ, địa ngục... Cõi trời vui vẻ gấp nghìn lần cõi người.
Chỉ cho chúng ta hiểu biết y báo, chánh báo trong sáu cõi. Xong đức Phật
để tùy chúng ta chọn lựa bằng cách tạo nhân xấu, tốt của mình. Ngài
chỉ chúng ta nhận định con người luân hồi và giải thoát cách biệt nhau
như tối với sáng.
Đừng hiểu rằng sau khi chết, chúng ta mới đến
cõi tịnh. Chính ngay lúc hiện tiền này, chúng ta cũng đạt được kết quả
an vui giải thoát, nếu tâm ta dứt được những trói cột của ba nhân ác:
tham, sân và si.
Có lắm người nóng tánh, tất sợ cảnh tội tù,
nhưng họ không sợ lòng sân, khi gặp cảnh trái nghịch là phát sân lên rồi
mặc tình gây tạo tội lỗi. Do đó, tuy không muốn đến khám đường mà rồi
không sao tránh khỏi.
“Bồ-tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả”.
Muốn
hết đau khổ, người ta phải lo dứt mầm giống tham lam, giận tức, si mê.
Hãy nghĩ đến kết quả của tập nhân mình tạo. Diệt được ba điều ác căn bản
rồi, tuy chúng ta còn, còn mặc, còn ở cõi này nhưng tâm tư chúng ta đã
tự do cổi mở hết những đau khổ.
TỰ DO CĂN CỨ TRÊN TINH THẦN TỰ
GIÁC. - Mê lầm và giác ngộ như tối và sáng. Chuyển mê lầm thành giác
ngộ. Hết tối tức là sáng. Chúng sanh muốn hết mê lầm được giác ngộ không
phải là việc khó khăn hay xa xôi gì. Nghĩa là chúng ta chịu thay đổi
quan niệm là thành công.
Có một Phật tử chân thành có thiện chí
muốn nhắc nhở khuyên can những sai lầm của huynh đệ để đồng được hoàn
hảo. Nhưng người bị khuyên can không bằng lòng, tìm chuyện nói xấu lại.
Nghe như thế người ấy đâm ra buồn phiền, chán nản hết muốn giảng, can
ngăn và lần lần xa chùa xa bạn...
Trái lại, nếu người ấy đổi buồn
phiền ra thương xót, gạt bỏ những lời nói xấu kia đi, cứ nghĩ rằng: “Họ
cho ta là háo danh, giả dối chỉ vì họ không hiểu ta. Ta nên cố gắng làm
sao việc làm lời nói đi đôi để họ khỏi hiểu lầm. Vì từ xưa đến nay
những bậc hiền nhân quân tử họ nhờ đào luyện trong lò phê bình chỉ trích
mà thành công”. Khi ấy, anh ta khởi lòng biết ơn kẻ trước kia anh ngỡ
là thù... Cố nhiên lúc này trong lòng anh, dưới mắt anh không còn thấy
ai là thù nghịch, tâm hồn anh giải thoát nhẹ nhàng.
Cùng trong
một trường hợp, một hoàn cảnh, người đặt quan niệm hẹp hòi sai lạc sẽ bị
đóng khung trong phạm vi ích kỷ khổ đau. Ngược lại, tâm hồn khoáng đảng
giải thoát.
Xưa kia Mặc-tử ở nước Lỗ sang nước Tề, anh qua nhà
người bạn cũ, vào chơi người bạn nói chuyện với Mặc-tử rằng: “Bây giờ
trong thiên hạ ai còn thiết đến việc “nghĩa”, một mình ông tự khổ thân
để làm việc nghĩa, thì có thấm vào đâu ! Chẳng thà thôi đi có hơn không
?”.
Mặc-tử nói: “Bây giờ có người ở đây, nhà mười đứa con, một
đứa cày, chín đứa ngồi ăn không, thì đứa cày chẳng nên chăm cày hơn lên ư
? Tại sao thế ? Tại đứa con ăn không nhiều, đứa con đi cày ít. Bây giờ
thiên hạ chẳng ai chịu làm việc nghĩa thì ông phải biết khuyên tôi càng
làm mới phải, có đâu lại ngăn tôi như thế !”. (Cổ học tinh hoa)
Đời
càng xấu xa dối tra, chúng ta càng có bổn phận nhắc nhở điều hay lẽ
phải cho người. Tự mình phải ăn ở xử sự cho ra người đạo lý. Nhất là cần
đặt quan niệm chân chánh mới khỏi thối tâm lui bước.
Một hôm
trên đường hóa đạo, Tổ Tăng-Xán gặp ngài Đạo-Tín, thuở ấy còn là một
sa-di mới mười ba tuổi. Ngài Đạo-Tín đến đãnh lễ, bạch Tổ:
- Bạch Tổ, xin Tổ hoan hỷ dạy cho con phương pháp giải thoát.
Ai trói buộc ngươi ?
- Bạch Tổ, không ai trói buộc con cả.
Đấy, ta đã dạy ngươi con đường giải thoát rồi !
Đạo-Tín hốt nhiên đại ngộ, thấu hiểu lý nhiệm mầu, thân tâm rỗng rang thanh tịnh.
Mê
cũng đó, ngộ cũng đó, tự mình cởi mở giải thoát những triền phược cho
mình. Không thể cầu cứu nơi ai, nhờ một sức lực nào bên ngoài, mà giải
thoát cho ta được. Chỉ tự ta biết chuyển đổi quan niệm sai lầm tức nhiên
được giác ngộ giải thoát.
MUỐN TỰ DO TA PHẢI CÓ TRÍ TUỆ - Ngoài
lòng tin Phật, chúng ta cần có trí tuệ để tự nhận xét, quyết định lẽ
phải chẳng. Không trí tuệ, không thể nào đi đến giải thoát, và chính ta
tự giải thoát cho ta, chớ không phải đức Phật hay Tổ hoặc thầy ta giải
thoát cho ta được.
Đức Phật trình bày: Đây là khổ, kia là vui,
nếu chúng ta không đủ trí tuệ, không nhận thấy những nguyên nhân sâu kín
âm thầm tạo đau khổ hay an vui thì chúng ta mãi mãi bị bao phủ trong mê
mờ đau khổ. Không biết sợ, không biết tránh trước việc làm xấu, ý nghĩ
xấu, làm rồi không biết ăn năn hối lỗi, thử hỏi đã gây nhân ác hại, làm
sao tránh khỏi quả khổ đau ? Khác chi kẻ khờ “nấu cát muốn thành cơm”,
làm sao thành được ? Nếu xét thấy hành động và ý nghĩ của chúng ta đốn
hèn, bất chánh thì nên biết ngừng ngay tại đó. Chúng ta phải đủ can đảm
nhìn thẳng vào lỗi lầm mình và cố gắng xoay hướng đổi chiều, gầy dựng
lại hành vi chân chánh cao đẹp. Việc làm này - dứt ác tu thiện - đòi hỏi
chúng ta phải lắm công phu và trải qua thời gian dày đặc. Nhưng nếu
chúng ta đã quyết chí thì thời gian và việc khó sẽ trở thành vô nghĩa.
MUỐN
TỰ DO PHẢI CHỊU TRÁCH NHIỆM - Trí tuệ thế gian thường gây đau khổ, trí
tuệ xuất thế gian mới đem người đến chỗ giải thoát an vui. Không thắng
được mình, đừng mong được sự tự do an lạc. Muốn có tinh thần tự do,
chúng ta phải có tinh thần trách nhiệm. Mình dám gây tội lỗi, mình phải
có gan chịu đựng khổ đau, đừng đổ cho kẻ này người khác. Đức Phật đối
với chúng ta chỉ là ông thầy dẫn đường, chớ không phải là đấng thần
linh.
Một hôm có Bà-la-môn đến hỏi Phật:
- Này Sa-môn Cù-đàm, đệ tử Ngài rất đông, chẳng biết cả thảy đều đạt được Niết-bàn chăng ?
Có một số đạt được, một số chưa đạt được.
- Tại sao chỉ một mình Sa-môn Cù-đàm dạy, cùng hấp thụ một giáo lý như nhau, mà kẻ đạt được Niết-bàn, người không đạt được ?
Này ông, ông biết thành Vương-xá không ?
- Thưa Ngài, tôi biết.
Nếu
có người đến hỏi ông con đường nào đi đến thành Vương-xá, chắc ông sẽ
trả lời: Theo con đường thẳng này xuyên qua đám rừng già, đến ngã ba rẽ
qua bên phải, đi thẳng theo con đường ấy sẽ đến khu vườn hoa đẹp, khỏi
vườn hoa ấy là tới thành Vương-xá... Người ấy đi đúng theo lời chỉ dẫn
của ông, vậy họ đến thành Vương-xá không ?
- Thưa Ngài đến.
Lại
có người thứ hai cũng hỏi đường về thành Vương-xá. Ông cũng chỉ dẫn
đúng như người trước. Nhưng người thứ hai này đi đến ngã ba lại quẹo
sang trái và cứ lầm lũi như thế mà đi, vậy người thứ hai này có đi đến
thành Vương-xá chăng ?
-Thưa Ngài, hắn đã đi sai lời tôi chỉ dạy, làm sao đến đi thành Vương-xá ?
Cũng một ông chỉ đường mà có kẻ đi đến thành Vương-xá, có người không đến thành Vương-xá là tại sao ?
- Tại có người đi đúng, có người đi không đúng.
Cũng
như vậy, tôi chỉ dạy rành rõ lối đi đến Niết-bàn mà đệ tử tôi có kẻ
thực hành đúng, người thực hành không đúng mới có sai biệt như vậy.
Nhưng lỗi ấy không phải tại tôi.
Khi có đủ duyên lành được nghe
lời chỉ dạy của đức Phật, chúng ta phải tự nhận hiểu rồi cố gắng tu tập.
Đừng bao giờ chúng ta ỷ lại vào đức Phật, chỉ mong cầu sự độ rỗi của
Ngài mà không tự lực tiến tu. Đức Phật chỉ có trách nhiệm chỉ dạy, hướng
dẫn, sự tu hành và tiến đạo là ở chúng ta. Đức Phật đã dành cho ta một
trời tự do: tự do lựa chọn, tự do tu tập, tự do vươn lên. Ngài không hạn
chế, không bắt buộc chúng ta vào một phạm vi, một quyền lực hay một cấp
bậc nào cả.
Nếu làm được việc tốt, mà không do thân tâm mình
chân thành tạo nên, do sự bắt buộc hay một áp lực nào thúc đẩy, thì được
khen hoặc bị chê không phải là công hay tội của ta. Mọi hành vi nên hư,
ta điều chịu trách nhiệm, đừng đổ trút cho ai. Tự mình phải ý thức được
khả năng của mình, để rồi chọn lấy một hướng đi cho thích hợp. Lên hay
xuống, thất bại hay thành công, trầm luân hay giải thoát, đều do ta
quyết định.
Dứt sạch mê mờ, gỡ hết những mối dây hệ lụy, người ấy
mới thật sự tự do an lạc. Mọi nhọc nhằn đau khổ đâu còn bám víu vào con
người ta được. Được thế, mới đúng tinh thần tự do của Phật giáo.
H.T Thích Thanh Từ
http://www.thienviendaidang.net