Nhiều
Phật tử đi chùa quy y đã lâu, biết tụng kinh niệm Phật, thế mà đối với
lý nhân quả chưa đủ lòng tin. Nếu chưa đủ lòng tin nhân quả thì giáo lý
Phật coi như chưa hiểu gì cả, vì lý nhân quả là nền tảng của Phật pháp.
Tin lý nhân quả là điều thiết yếu nhưng không phải tin suông, tin mù
quáng mà là một sự kiện thực tế, cụ thể ngay trong cuộc sống, rất sáng
tỏ, không mơ hồ huyền hoặc.
Thế nào là "Bồ Tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả"?
Bồ
Tát nguyên chữ Phạn là Bodhisattva, dịch âm là Bồ Đề Tát Đỏa, dịch
nghĩa là hữu tình giác. Tức là một chúng sanh đã giác ngộ và đang giúp
cho những chúng sanh khác cũng được giác ngộ như mình, thì gọi là Bồ
Tát. Nhờ đã giác ngộ thấu suốt được lý nhân quả trong ba đời, nên chỉ sợ
nhân mà không sợ quả. Chúng sanh là loại hữu tình có sinh có tử còn vô
minh nên đi mãi trong vòng luân hồi. Vì chưa giác ngộ, còn mê mờ không
thông lý nhân quả nên chỉ sợ quả mà không sợ nhân. Vậy kiểm lại trong
chúng ta, ai là người biết sợ nhân xấu đó là người giác, là Bồ Tát, ai
sợ quả xấu là kẻ mê, là chúng sanh. Bồ Tát hay chúng sanh là tự chúng ta
có thấy biết đúng sự thật hay không, chớ không phải Bồ Tát cỡi hạc hay
cỡi sư tử đi trên hư không để cho người ngưỡng vọng lễ bái.
Nếu
giác, thấy đúng lẽ thật, nhận biết một cách chính xác nhân nào đưa đến
quả khổ, nhân nào đưa đến quả an lạc. Do biết rõ, nên thấy nhân nào đưa
đến quả khổ quyết định không làm, vì tạo nhân rồi thì không tránh được
quả, đó là Bồ Tát sợ nhân. Ngược lại, cái nhân đưa đến quả khổ nếu chúng
ta không biết để tránh, mà chỉ thấy quả khổ đến lo sợ tránh né, đó là
chúng sanh sợ quả. Ví dụ người có tật nóng giận, mỗi khi có người trong
nhà hay hàng xóm nói hoặc làm điều gì trái ý liền la lối đánh đập. Nếu
chửi bới hay đánh đập vợ con trong nhà bị thương tích thì tốn tiền thuốc
thang chữa trị, bị xóm giềng cười chê là đồ bất nghĩa bất nhân, khiến
tâm ray rứt hối hận.
Nếu
đánh đập người ngoài xã hội có thương tích thì bị người đánh lại hay bị
bắt bớ giam cầm. Khi đánh chửi thì không sợ, đến khi thấy vợ con đau
bịnh hoặc bị người đánh lại, hay bị tù tội thì lo sợ. Đó là người mê hay
tỉnh? Vì mê không biết nhân xấu ác sẽ đưa đến quả khổ, nên cứ làm rồi
thọ quả khổ chừng đó mới sợ.
Người
có lòng tham, thấy của người dễ lấy, liền lấy đem về làm của mình, khi
lén lấy của người thì không sợ mà chỉ thích thú là mình được của. Để khi
chủ nhà hay mất của, báo nhà chức trách truy tìm lùng bắt kẻ trộm thì
lo sợ. Đó là người mê, vì mê nên không biết tạo nhân xấu phải chịu quả
khổ, cứ làm để rồi quả khổ đến thì hoảng kinh lo sợ.
Có
nhiều thiếu niên 14, 15 tuổi thấy người lớn hút thuốc nhả khói phì phà
có vẻ oai vệ thư nhàn nên tập hút, hút một thời gian thì ghiền. Khi
ghiền, nếu có thuốc hút thì tạm ổn, hôm nào không tiền mua thuốc thì
ngáp dài chảy nước dãi thèm thuồng, chịu không nổi, tới người này, người
kia năn nỉ mượn tiền mua thuốc hút, thật là khổ sở. Đó là cái quả chặng
thứ nhất. Đến quả chặng thứ hai là hút tới lới tới già thì bị nám phổi,
ung thư phổi, bịnh trầm kha, khốn khổ vô cùng. Lúc hút thuốc hồn lâng
lâng quyện theo khói theo mây thì không sợ. Đến khi cơn ghiền hành hạ
không tiền mua thuốc, bịnh hoạn bứt ngặt không tiền uống thuốc, không
thuốc để điều trị, chừng khổ đến mới sợ.
Lại
có những chú bé mười lăm mười bảy tuổi thấy cha chú uống rượu bàn tán
việc làng việc nước, việc cổ kim thời sự ra vẻ người hiểu biết sành đời,
nên thích thú tập uống. Khi mới uống thì cảm thấy cay nóng, tập một
thới gian trở thành dễ chịu và đi tới ghiền. Khi ghiền rồi thì mỗi ngày
phải có rượu mới yên, nếu không rượu thì uạ ọc bực bội khó chịu. Đó là
cái quả thứ nhất không rượu uống. Nếu gặp tiệc tùng anh em đông đảo,
người chén thù người chén tạc, kết quả là say túy lúy, đi ngã bờ ngã bụi
làm trò cười cho thiên hạ. Khi về đến nhà thì chửi đánh vợ con, ói mửa
đầy đất hôi hám nhơ bẩn nhà cửa, khiến cho cha mẹ vợ con buồn chán. Đó
là cái quả thứ hai, làm cho gia đình mất hạnh phúc.
Đến cái quả thứ ba là chai gan, loét dạ dày... đau bịnh trầm kha vô
cùng khốn khổ. Từ cái nhân nhỏ đưa tới cái quả thật to, mà người ta
không thấy nên mới tạo, để rồi thọ quả vô cùng khốn khổ, hối hận thì
không kịp. Vậy, người tập tành những thói hư tật xấu đó là giác ngộ hay
mê? Bởi mê nên mới khổ. Nếu giác như Bồ Tát biết rõ hút thuốc uống rượu
là cái nhân đưa tới nghiện ngập, bịnh hoạn nghèo khổ, gia đình mất hạnh
phúc. Biết như vậy, nhất định không uống, không hút, dù người có cố tình
mời mọc, dứt khoát không dùng. Đó là người sống có tính giác nên không
khổ. Nếu sống mà không biết nhân nào đưa tới quả khổ, nhân nào đưa tới
quả vui, mặc tình tạo tác để rồi quả đến thì kêu trời trách đất. Đó là
người mê muội không biết tránh nhân, chỉ biết sợ quả nên bị khổ đau. Vậy
chúng ta hiện có mặt ở đây tự xét lại coi mình là người giác hay kẻ mê?
Ai cũng muốn mình là người giác, không bị khổ đau bứt ngặt thì nên tập
hạnh của Bồ Tát là biết tránh nhân xấu, chớ không sợ quả xấu.
Ở
thế gian có nhiều trường hợp mới thoạt nhìn, thấy dường như rất tốt,
nhưng nhìn kỹ thì chẳng tốt chút nào. Chẳng hạn người biết hút thuốc gặp
người chưa biết hút thì mời ép cho hút, đến khi ghiền thuốc rồi, không
tiền mua, xin thì kkhông cho. Hoặc người chưa biết uống rượu được người
biết uống rượu mời mọc ép uống, đến khi ghiền rồi thì ít khi được mời
uống. Vậy, những người bạn thuốc bạn rượu có thật thương thật tốt với
chúng ta không??? Bạn thuốc bạn rượu không phải là người để chúng ta kết
giao thân thiện.
Lại
có trường hợp Phật tử thường đi chùa tụng kinh lạy Phật. Một hôm có
người nói: "Chị năm nay bị sao Kế Đô chiếu mạng, coi chừng bị tai nạn".
Phật tử này không dám đi đâu, ngay cả đi chùa cũng không đi, ở nhà lo
lắng buồn rầu... Phật tử đi chùa với tâm trạng như vậy, có hiểu lý nhân
quả không? Sao Kế Đô đó do ai đặt ra. Nhà thiên văn địa lý nào đó đặt ra
mỗi tinh tú có một cái tên, trong đó có một tinh tú mang tên Kế Đô và
mỗi tinh tú vận hành theo luật thiên nhiên của vũ trụ, đâu có chủ yếu
chiếu vào người nào để cho người đó thọ nạn? Theo lý nhân quả của Phật
giáo thì do người chủ động tạo tác nhân (nguyên nhân tạo nên sự vật, khi
sự vật thành hình gọi là kết quả) và quả cũng do người tạo tác nhận chớ
không ai khác. Phật, trời, thánh, thần không định đặt cho con người khổ
hay vui, mà do con người làm chủ; Nếu tạo nhân xấu là thọ quả xấu, nếu
tạo nhân tốt thì thọ quả tốt. Vậy sợ là sợ cái gì? Giả sử có một Phật tử
đúng vào năm sao hạn xấu mà tâm lúc nào cũng nghĩ tốt, nói năng thì vui
vẻ nhã nhặn, đối với mọi người thì luôn luôn tử tế hài hòa, thì Phật tử
ấy thường được người thương hay ghét? -Thương.
Ngược
lại, nếu có một Phật tử hay đi chùa được tuổi tốt sao hạn tốt mà tâm
thường nghĩ quấy, nói năng thô lỗ cộc cằn, đối xử với mọi người thì hơn
thua lấn lướt. Vậy Phật tử đó được thương hay bị ghét? -Ghét. Vậy, do
tâm niệm xấu xa, ngôn ngữ cộc cằn thô lỗ, hành động bất hảo làm cho
người ta ghét hay sao hạn làm người ghét? Và tâm niệm tốt đẹp, ngôn ngữ
nhã nhặn, việc làm lương thiện khiến cho người thương hay sao hạn khiến
cho người thương??? Nếu người thương thì được người hoan hỉ giúp đỡ, đó
là phước. Nếu có người ghét thì bị hại đó là tội. Rõ ràng tội phước là
do ý nghĩ lời nói hành động mà ra, ý nghĩ lời nói hành động tốt là gieo
nhân lành, đã gieo nhân lành thì quả sẽ an vui tốt đẹp, ý nghĩ lời nói
hành động xấu là gieo nhân ác thì gặt quả xấu khổ đau. Khổ hay sướng là
do nhân tốt hay xấu chớ đâu do tuổi xấu sao hạn xấu?
Đa
số người Việt Nam đều ngại ngùng ngày mùng năm, mười bốn, hai mươi ba,
đi đường thì không dám đi, làm việc thì không dám khởi công vào những
ngày này, vì đó là những ngày xấu. Với những ngày xấu này, nếu quý Phật
tử để dành tiền mua sắm phẩm thực vật dụng cần thiết để đem đi giúp đỡ
người tàn tật, bệnh hoạn hay già yếu thì ngày đó là ngày tốt hay ngày
xấu?-Tốt. Trong những ngày mà đi giúp đỡ xoa dịu cho người bớt cơn nghèo
túng đói khổ, không phải ngày tốt là gì? Còn những ngày khác được coi
là tốt mà ra đường gặp ai cũng cãi cũng gây rồi đi tới đánh đập kiện
cáo. Vậy ngày đó là ngày tốt hay xấu?-Xấu. Tại ngày đó xấu hay tại chửi
lộn đánh lộn thành xấu?
Tại
mình không biết chế ngự thân miệng ý mới có chuyện đánh chửi xảy ra nên
xấu. Như vậy, ngày được mọi người cho là tốt mà gieo nhân xấu thì ngày
đó cũng trở thành xấu mà biết gieo nhân tốt thì ngày đó cũng trở thành
tốt. Lỗi tại ngày giờ hay lỗi tại hành động con người? Nếu lời nói hành
động con người gây tai họa hay được an vui, thì rõ ràng con người gieo
nhân và cũng chính con người chịu quả, đâu phải ngày giờ sao hạn định
tốt xấu cho con người. Đã là Phật tử, có còn sợ và tin ngày giờ, sao hạn
tốt xấu nữa không? Nếu còn thì lòng tin nhân quả chưa có. Luật nhân quả
"là một lẽ thực cụ thể", vì Phật tử không hiểu chưa tin nên nói mơ màng
tưởng tượng ra lý này lẽ nọ để mà tin mà làm. Thế nên có nhiều Phật tử
đã quy y mà vẫn tin những cái quàng xiên, mơ hồ không đúng lẽ thật.
Ví
dụ tromg gia đình hai vợ chồng có những quan điểm bất đồng nên gây cãi
nhau, lần đầu không giải quyết ổn thỏa, ít hôm sau lại cãi nữa, và cứ
cãi hoài đến năm bảy lần... rồi họ thắc mắc tại sao trong nhà cứ xào xáo
hoài, họ cho rằng do cái cửa, cái bếp đặt không đúng hướng, nên đến
chùa nhờ thầy giở lịch ra coi, rồi xây lại cái bếp sửa lại cái cửa.
Nhưng, xây bếp sửa cửa xong họ lại cãi nữa... Hai người bất đồng ý kiến
mà không chịu hóa giải cho đồng, cho có một hướng chung để xây dựng cuộc
sống chung cho có hạnh phúc mà lo sửa bếp sửa cửa.
Chỉ
làm chuyện bên lề không đúng vào đâu. Chẳng hạn có cuộc cãi vã đó là do
ông chồng đang có chuyện tình cảm riêng tư, nên người vợ buồn phiền
sanh ra rầy rà. Muốn cho gia đình được êm ấm, thì người chồng phải tu
chỉnh thói hư tật xấu, để trở thành người chồng tốt, người chồng có đủ
tư chất. Còn cái bếp cái cửa vô tri có dính dáng gì với chuyện cãi vã
của vợ chồng trong gia đình? Thế mà người ta vì không hiểu nên không
thấy cái nhân gây ra cái dở cái xấu, để rồi trốn tránh trách nhiệm và đổ
thừa cho ngoại cảnh. Quý vị có tự thấy mình mỗi khi làm điều gì hư dở
là nêu lý do này lý do nọ, chứ không dám nhận cái hư dở là tại mình sơ
thất và can đảm chịu trách nhiệm. Đó là do tâm hồn yếu đuối, không gan
dạ nhìn nhận sự thật.
Nếu
người Phật tử hiểu được lý nhân quả, biết được mọi sự vật xảy ra giữa
mình với người đếu do cái nhân từ trước, mà nhân đó chính mình tạo chớ
không phải ngẫu nhiên mà có. Chẳng hạn đi đường gặp người quen vừa thấy
mặt mình là họ xoay mặt đi chỗ khác, mình liền bực cho rằng họ khinh
mình, bèn nói xa nói gần một hồi sanh ra gây chửi. Chửi rồi, về nhà nói
rằng tôi không chọc ghẹo mà nó kênh với tôi nên tôi phải cho nó một bài
học. Người nói như vậy là vô lý, vì trong sự tương giao, mình cũng như
người chưa từng nói hay làm điều gì mích lòng nhau, vẫn đối xử với nhau
tốt đẹp, thì có khi nào gặp nhau là khó chịu xoay mặt làm lơ? Không ai
mà bất thường đến thế ! Chắc chắn là mình hoặc vô tình hay cố ý đã làm
cho họ xúc não rồi, nên gặp mình là họ tránh né. Đó là do mình đã gây
nhân không tốt với họ rồi, chớ đâu phải vô cớ. Quý vị xét kỹ lại xem
trong gia đình ngoài xã hội từ vợ chồng con cái cho đến quyến thuộc anh
em bằng hữu, nếu có chuyện không ổn xảy ra, đều do nguyên nhân không
tốt, hoặc người này hay người kia tạo ra mà người trong cuộc không có
gan nhận trách nhiệm tự nơi mình mà đổ thừa lý này lẽ nọ.
Vì
thế mới có thầy bói khai thác cái nhược điểm đó để ăn tiền. Nếu Phật tử
mà tin sâu lý nhân quả thì không tốn tiền coi bói. Ngày xưa tôi có quen
một ông thầy bói, ông nói cho tôi nghe cái thuật coi tướng số của ông
mà tôi cười quá chừng. Ông nói coi tay đâu cần coi, chỉ nhìn dáng người
là đoán đúng tâm lý. Chẳng hạn vợ ông cả ông chủ đến coi mà thấy người
héo hon xanh xao, là biết bà đang bệnh gì rồi. Ông liền nói: Bà rất hiền
lành, rất phúc hậu, trong nhà bà có người xen vô làm cho gia đình mất
hạnh phúc, nên bà buồn rầu sinh bệnh hoạn... Bà khen ông coi rất hay nên
trả tiền rất hậu. Còn nếu thanh niên nhờ xem vận mạng đen đỏ trong kỳ
thi tới, thì ông nói: Không sao, cháu thế nào cũng đậu, nhớ ráng học,
học giỏi thì sẽ thi đậu. Tới chừng thi, nếu đậu thì ông được khen và
được thưởng, nếu rớt thì ông nói tại cháu không chịu ham học...
Ông
nói, bói là đánh vào tâm lý, đánh vào sở thích, nói cho người ta vừa
lòng thì dù đúng hay không cũng thù lao tiền trọng hậu. Để thấy người
coi bói là họ ve vuốt theo tình cảm, chúng ta thích cái gì thì họ cứ
vuốt ngọt cái nấy để chúng ta vừa lòng, đã hài lòng thì dù nói dở cũng
thành hay, nói trật cũng thành trúng. Đó là cái thuật mà người chuyên
nghiệp họ kể lại cho chúng tôi nghe. Điếu cần thiết của họ là khéo mồm
khéo miệng, nhờ khéo lời, nên người coi bói tốn tiền mà không lẩn tiếc,
cứ đi coi hoài.
Người
băn khoăn lo lắng hậu vận của mình là người không tin nhân quả, nếu tin
nhân quả thì có gì băn khoăn lo lắng? Muốn mai kia được sung sướng thì
ngày nay cứ lo làm lợi ích cho mọi người. Muốn mai kia thi đậu vẻ vang
thì ngày nay phải chăm học, học giỏi. Muốn cho mọi người ai thấy mình
cũng mừng rỡ thì cứ đối đãi tử tế với mọi người. Mình đã tạo nhân thì
quả sẽ đến, chớ không thể bỗng dưng mà có.
Như
vậy, quý Phật tử có nên đoán vận mệnh nữa không? Giả sử mỗi năm cần
đoán hậu vận khoảng năm ba chục lần, thay vì làm việc đó, quý vị nên sắm
phẩm thực vật dụng thuốc men cho cô nhi, người già, người bệnh, vì họ
đang cần sự giúp đỡ của chúng ta.
Châm
ngôn Việt Nam có câu: "Tay cầm tiền quý bo bo, đem cho thầy bói mang lo
cho mình". Làm ra tiền thì phải lao động tay chân hay trí óc cực nhọc
nên quý nó lắm. Nhưng đem tiền đến thầy bói coi vận mạng, nếu họ nói năm
này là năm tuổi, nhằm sao la hầu chiếu mạng, hậu vận không tốt... Coi
xong về nhà lo rầu, không biết tai nạn gì sẽ đến với mình, rồi bỏ ăn mất
ngủ. Đi coi bói chỉ thêm buồn thêm lo thôi, có lợi gì? Người tin nhân
quả cứ tạo nhân lành thì quả tốt sẽ đến, còn tạo nhân ác thì dù cho có
ai khen tốt khen hay, thì quả xấu vẫn cứ đến.
Giả
sử đối với một người nào đó mà mình ghét họ, khinh họ, nói xấu họ, chắc
chắn là họ không quý mến mình. Ngược lại, đối với họ nếu mình cảm
thông, chân tình giúp đỡ, dù không muốn họ quý mến mình, họ vẫn cứ mến.
Nhân quả theo nhau không rời, rõ ràng mà nhiều người không tin, cứ tin
những chuyện bâng quơ vô căn cứ. Như vậy, người Phật tử hiểu rõ lý nhân
quả thì tránh nhân hay sợ quả? Nếu biết tránh nhân xấu tạo nhân tốt thì
quả xấu làm gì có? Người mà biết tránh nhân xấu tạo nhân tốt là người
tỉnh hay người mê? Đó là người tỉnh, người giác, là Bồ Tát con. Bồ Tát
thì sáng suốt, biết tránh nhân xấu thì quả khổ không đến nên được an
lạc, chúng sanh vì si mê, cứ tạo nhân xấu thì quả xấu cứ đến nên đau
khổ.
Người
tránh nhân xấu thì không băn khoăn về chuyện thương chuyện ghét, không
băn khoăn về hậu vận rủi may, cứ trải lòng thương đến mọi người và làm
lợi ích cho mọi người, lòng không lẩn tiếc hay toan tính. Chúng ta
thường có những bất công mà không tự thấy, không đem nguồn vui đến cho
mọi người mà cứ mong mình luôn được vui sướng, điều này khó có thể xảy
ra.
Ví
dụ muốn ráp một chiếc xe đạp toàn hảo vừa chắc chắn vừa đẹp, phải lựa
mua những bộ phận cho thật tốt. Cần có đủ năm chục bộ phận mới ráp được
chiếc xe vừa bền vừa đẹp, mà chúng ta chỉ có hai chục bộ phận hoặc mười
bộ phận là đồ tốt, những bộ phận còn lại là đồ xấu, khi ráp xong chiếc
xe, chiếc xe có được vừa ý không? -Không. Để thấy, muốn được chiếc xe
hoàn hảo thì phải chọn các bộ phận của chiếc xe cùng hoàn hảo.
Cũng
vậy, con người ai cũng muốn đời mình hoàn toàn vui, không muốn chút khổ
xen lấn, vậy mà khi tạo thì không chọn thuần nhân lành mà cứ để xen lấn
những điều xấu, thì làm sao được quả vui hoàn toàn? Chẳng hạn như các
ông muốn thân thể được khỏe mạnh, tinh thần minh mẫn, mà lại hút thuốc
uống rượu gây cái nhân đau bịnh, thì làm sao được khỏe mạnh sáng suốt.
Muốn cho thân khỏe tâm sáng thì phải sống có điều độ có thì giờ nghỉ
ngơi tịnh dưỡng thân tâm. Còn các bà các cô ai cũng muốn tươi trẻ, vậy
mà cứ buồn giận nhăn nhó quạu quọ hoài, thì làm sao tươi trẻ được. Muốn
tươi trẻ thì phải sống lành mạnh vui vẻ, nhờ vui nên mới tươi, mà vui
thì không giận.
Vậy,
nếu có ai lỡ làm phiền thì hoan hỷ bỏ qua, đó là tạo nhân tươi trẻ.
Bằng ngược lại, cứ buồn giận, hết phiền người này ghét người kia, mà
giận ghét thì lòng đâu có an ổn nhẹ nhàng, ăn không ngon ngủ không được,
đó là cái nhân bệnh hoạn làm cho thân mình tiều tụy hốc hác. Nếu biết
nhân xấu đưa tới quả xấu thì tránh, đừng muốn một đàng mà làm một nẻo
thì không được như ý. Vậy, biết tu một ngày là làm cho mình được an vui
một ngày, tu một măm là làm cho mình được an vui một năm và đồng thời
cũng gây niềm vui cho mọi người. Hiểu như vậy chúng ta mới thấy nhân quả
giúp chúng ta nhìn đúng lẽ thật, sống an lành, trở thành người gan dạ
mạnh mẽ không nhát nhúa yếu đuối.
Ví
dụ có một Phật tử vì không điều phục được cơn phiền giận nên lỡ đánh
chửi người. Khi đánh chửi xong biết mình tạo nhân ác, chắc chắn là quả
báo xấu sẽ đến. Nên khi bị người uy hiếp đánh đập lại thì gan dạ chịu
chớ không kêu than hay trách cứ ai cả. Ngược lại, có người khi đánh chửi
thì hăng hái, đến khi bị uy hiếp thì kêu trời kêu đất than trách đủ
điều. Đó là người yếu đuối không thấy được nhân xấu mà mình đã tạo. Vậy
muốn được an vui thì phải gan dạ bỏ những cái nhân xấu mà tạo nhân lành.
Thường tạo nhân lành thì cái xấu ác sẽ yếu dần và hết hẳn.
Hiểu
được lý nhân quả thì đối với những sự việc bất tường xảy ra, chúng ta
sẽ không trách người mà tự trách mình, do mình trước kia mê muội không
tránh nhân xấu ác nên giờ này thọ quả xấu. Sẵn sàng đón nhận một cách
gan dạ bình tĩnh. Chúng ta thường thấy trong một gia đình hai ba chị em
sống chung, có một người lỡ làm bể một cái tô hay cái dĩa, sợ bị rầy nên
phi tang.
Đến
khi má hay ba hỏi không ai nhận là mình làm bể, thái độ như thế là nhát
nhúa không có tinh thần trách nhiệm, lỡ làm thì gan dạ thú nhận lỗi của
mình để người khác không bị hàm oan, không bị vạ lây bởi cái dở của
mình. Lý nhân quả giúp con người có tinh thần trách nhiệm, sáng suốt,
biết lựa chọn nhân tốt để làm nhân xấu để tránh. và lỡ tạo nhân xấu rồi,
thì sẵn sàng chấp nhận quả xấu một cách gan dạ không sợ sệt, không lẩn
trốn. Vì không hiểu lý nhân quả nên mới nhát nhúa, sợ sệt, không có
chánh tín, rồi làm xằng bậy sẽ đi vào con đường tà một cách dễ dàng.
Hiện
tại có một số Phât tử có cái lệ đầu năm đi chùa hái lộc, hay đi cúng
thập tự để cầu cho trọn năm được bình an. Nhưng nếu nửa năm có xảy ra
hoạn nạn thì thắc mắc tại sao mình đi cúng thập tự và đã cầu an mà vẫn
còn hoạn nạn. Rồi cho rằng chùa cầu nguyện không linh, định năm sau sẽ
không đi cúng chùa nữa. Quan niệm như vậy là không chánh đáng. Vì đi
cúng chùa cầu xin Phật ban phước lành, đó chỉ là một ảo tưởng. Phật có
bao giờ ban phước giáng họa cho ai đâu? Phật chỉ dạy cho ta việc nào để
làm cho được an vui, việc nào nên tránh để khỏi bị khổ. Chúng ta nghe
lời dạy của Ngài thực hành theo mới hết khổ. Phật không phải là một thần
linh để ta tôn thờ lễ lạy và cầu xin phước lộc.
Năm rồi có một Phật tử hỏi tôi:
-Thưa
thầy. có người nói bà Chúa Xứ ở Châu Đốc linh lắm, Đến miếu bà vay tiền
về làm ăn sẽ phát đạt. Theo thầy thì quan niệm đó đúng hay sai?
Tôi đáp:
-Nếu
vay tiền ở miếu bà về làm ăn phát tài, thì mọi người ở Châu Đốc đều
giàu hết, vì ở đó gần, họ sẽ vay để làm giàu. Nhưng có nhiều gia đình ở
chung quanh miếu bà, nhà còn lụp xụp có vẻ nghèo khó, họ dại gì không vô
miếu vay mà làm giàu, để quý vị từ phương xa đến vay?
Đó
là một chuyện vô lý, vậy mà người ta vẫn cứ tin, tin một cách mù quáng.
Người Phật tử không thấy được lẽ thật, tin hết chỗ này linh đến chỗ
khác linh, đua nhau đi tìm sự linh hiển ở bên ngoài. Không thấy được
linh hay không linh là cái nhân tốt hay xấu mà mình đã tạo, tạo nhân tốt
thì gặp quả tốt, tạo nhân xấu thì gặp quả xấu. điều đó quá rõ ràng, vì
chúng ta chưa định tĩnh nên không thấy đó vậy.
Lại có người hỏi:
-Thưa
thầy, nhiều người đi biển gặp sóng to gió lớn, họ niệm Bồ Tát Quan Thế
Âm, thấy Bồ Tát đến cứu họ được thoát nạn, họ cho rằng Bồ Tát linh
thiêng. Theo thầy thì sự kiện đó như thế nào?
Tôi
đáp: Đã là Phật tử đi sông đi biển gặp sóng gió thì không ai tiếc hơi
mà không niệm Quán Thế Âm Bồ Tát. Nhưng tại sao có người được cứu, vẫn
có người bị chết chìm? Có phải Bồ Tát Quán Thế Âm thương người này mà
không thương người kia không?
Vì
không hiểu lý nhân quả nên cho rằng người không bị nạn là nhờ niệm Bồ
Tát. Bồ Tát linh giải cứu cho thoát nạn. Còn người bị nạn niệm Bồ Tát,
mà Bồ Tát không linh nên không cứu. Tại sao đồng niệm Bồ Tát mà người
niệm linh, người niệm không linh, làm sao cho rõ lẽ này? Người niệm danh
hiệu Bồ Tát mà được thoát là vì chính người đó có nhiều nhân lành nhiều
phước đức. Nên khi tâm khởi tưởng Phật, tưởng Bồ Tát thì thấy Phật và
Bồ Tát hiện. Vì chủng nghiệp lành đã huân chứa sẵn đủ duyên liền khởi
hiện hành (thấy Phật thấy Bồ Tát), Và vì do tích chứa nhiều nghiệp lành
thì làm sao thọ quả khổ được? Còn người niệm danh hiệu Bồ Tát mà vẫn bị
nạn, chính vì người đó thiếu phước không có tích lũy nghiệp lành (chủng
tử Phật, Bồ Tát không có sẵn).
Tuy
có khởi niệm mà Phật và Bồ Tát vẫn không hiện. Và vì nhân ác đã có sẵn
nên chiêu quả không lành. Để thấy, sự kiện trên cũng do nhân lành hay dữ
mà chúng ta tạo, không phải do từ Phật hay Bồ Tát linh thiêng đến giúp.
Thế nên người Phật tử tu hành đầu tiên là phải hiểu lý nhân quả, biết
nhân nào nên làm nhân nào nên tránh, đó là chúng ta tiến vào con đường
giác, mà người sống có tỉnh có giác thì hết khổ được vui, rõ ràng không
nghi ngờ.
Hằng
ngày trong công việc làm ăn tuy có bận rộn giao tế nhiều với mọi người,
nhưng nếu chúng ta biết tránh nhân dữ, chọn nhân lành, thì từ ý nghĩ,
lời nói, việc làm lúc nào cũng lương thiện, vừa lợi mình vừa lợi người,
đó là chúng ta đã tu. Chúng ta phải thường xuyên tu, tu từng phút, từng
giờ, tu cả ngày... chớ đâu phải đợi tới giờ tụng kinh lạy Phật mới tu,
ngoài giờ đó nếu có ai đụng chạm đến là ăn thua đủ, tu như vậy là không
hiền. Lạy Phật thì lạy, tụng kinh thì tụng, chửi lộn vẫn cứ chửi, đánh
lộn cũng dám đánh.
Thế nên tu mà không hết khổ lỗi tại chỗ đó. Vì tu mà chỉ biết tu với
Phật không chịu tu với chúng sanh, cũng không chịu tu với chính mình
nữa. Phật đâu có cần chúng ta tu với Ngài, vậy mà cứ nghiêm trang lễ bái
Phật, còn ra ngoài đời với mọi người thì không nhịn một lời, không
nhường một bước, ăn thua đủ. Đối với Phật dù quý vị có khen hay chê,
Ngài cũng không vui không buồn, cũng không nói một lời, Ngài cũng không
cần chúng ta tu với Ngài.
Còn
chúng sanh thì dễ buồn giận, nên chúng ta mới tu với họ thì mình bớt
khổ mà họ cũng bớt khổ. Biết tu với nhau là đem lại hạnh phúc cho nhau,
đem sự bình an lại cho nhau. Phật dạy chúng ta tu là tu với mọi loài,
chớ đâu có bảo tu với Ngài. Vậy mà đa số người chỉ biết tu với Phật,
ngày ngày lễ bái Phật, dâng hương dâng hoa cúng Phật...
Thậm
chí có nhiều người nói hôm nay là ngày tôi ăn chay nên tôi tu, đợi ăn
chay mới tu. Vậy những ngày ăn mặn không tu sao? Một tháng ăn chay có
bốn ngày hoặc sáu ngày nên chỉ tu có bốn ngày hoặc sáu ngày, còn lại hai
mươi bốn ngày hoặc hai mươi sáu ngày cứ tự do làm ác với mọi người sao?
Nếu
đợi đến trước tượng Phật mới tu, đợi tụng kinh mới tu, đợi ăn chay mới
tu, tu như thế thì quá hạn chế. Tu là phải thường xuyên nhìn thấy từng
hành động, từng lời nói, từng ý nghĩ của mình, nếu tốt thì cho ra, xấu
thì dừng lại, đó mới thật là tu. Tu như vậy mới đúng với tinh thần "Bồ
Tát Sợ Nhân" và dù không muốn làm Bồ Tát thì quý vị cũng là Bồ Tát. Vì
đã thực hành cái hạnh Bồ Tát ắt hẳn phải là Bồ Tát. Bồ Tát là giác, biết
được nhân xấu không làm, nhân tốt thì làm đó là tỉnh giác, mà người
hằng tỉnh hằng giác không phải là Bồ Tát là gì?
Các
Phật tử ở đây đều thuộc câu "Bồ Tát sợ nhân, chúng sanh sợ quả". Vậy ai
cũng biết cũng biết việc nào nên làm việc nào nên tránh rồi. Tôi mong
rằng quý vị cố gắng tu hành để tương lai sẽ thành Bồ Tát, tập sống với
quan niệm Bồ Tát, hành động theo Bồ Tát thì mai kia chúng ta sẽ là Bồ
Tát. Còn nếu cứ sống theo quan niệm và hành động của phàm phu thì suốt
kiếp chúng ta vẫn là phàm phu. Vậy, phàm phu và Bồ Tát không xa, chỉ có
mê hay giác mà thôi. Nếu giác là Bồ Tát và được an vui, nếu mê là phàm phu và bị đau khổ.
HT.Thích Thanh Từ