vào lúc sáng sớm như thường lệ, Thế
Tôn quán sát thế gian và thấy vị cư sĩ có túc duyên tu tập và khả năng thành
tựu thánh quả. Do đó, khi trở về tu viện sau một vòng thiền hành khất thực, Thế
Tôn đi với một Sa-môn thị giả đến trước cửa nhà của vị cư sĩ đau khổ.
Được tin Thế Tôn quang lâm, ông thầm nghĩ: “Chắc là
Ngài đến thăm chơi và có đôi lời chúc lành lịch sự”. Ông cung kính thỉnh Thế
Tôn vào nhà và mời Ngài ngồi trên một chiếc ghế rộng lớn đặt giữa phòng khách.
Sau khi Thế Tôn an tọa, ông đảnh lễ Ngài và trịnh trọng ngồi sang một bên.
Thế Tôn nhìn ông, khẽ hỏi:
- Này đạo hữu có duyên với Phật pháp, vì sao trông đạo
hữu buồn rầu khổ sở như thế?
- Bạch Thế Tôn, buồn lắm, đau đớn lắm! Con có một cháu
trai duy nhất, tưởng đâu trời cho để nối tiếp dòng tộc, không ngờ cháu bị bệnh
trái rạ mấy hôm rồi đi luôn. Gia đình con coi như tuyệt diệt từ đây! Ông nói
với giọng nghẹn ngào rồi bưng mặt khóc hu hu…
- Đạo hữu, không nên tự mình làm khổ lấy mình nữa.
Trên cõi đời này, cái chết không giới hạn cho riêng ai hay một khu vực nào, mà
nó diễn ra bình đẳng, dứt khoát dưới mọi hình thức. Những gì có hình tướng đều
bị chi phối và hủy hoại bởi sự tác động của thời gian vô cùng và không gian vô
tận. Tất cả mọi thứ đều phải trải qua bốn giai đoạn tất yếu: với chúng sinh thì
sanh lão bệnh tử; với thực vật thì sanh trụ dị diệt; với khoáng vật thì thành
trụ hoại không. Thấy chưa?... Có cái gì vĩnh cửu đâu! Vậy mà đạo hữu ngày nào
cũng ra gò thiêu khóc than ai oán, kêu gào tên con. Thật là tiêu hao sức lực và
phí phạm thời gian! Đạo hữu chắc cũng đã từng nghe các thầy tụng kinh cầu siêu
khi thiêu thi thể:
Hữu sanh hữu tử hữu luân hồi,
Vô sanh vô tử vô khứ lai,
Sanh tử khứ lai đô thị mộng,
Tốc phao trần thế thượng liên đài.
Thấy chưa?... Sanh tử khứ lai chỉ là mộng huyễn. Làm
thế nào khi rời trần thế mà lên được đài sen mới là thượng sách, mới là Phật tử
chân chính, mới là dày công tu tập, thành tựu công phu. Đã mang thân tứ đại thì
phải bị tác hại bởi lẽ vô thường. Do đó, đạo hữu nên có cái nhìn thông đạt về
cái chết để hết khổ, hết thương, hết vương, hết lụy. Nói tóm lại, cái gì mang tính
hủy hoại thì phải hoại vong, cái gì mang tính tiêu tan thì phải tan rã!
- Các bậc hiền trí ngày xưa, Thế Tôn tiếp lời, không
bao giờ thở than bi lụy về cái chết của một quý tử đến nỗi phải vất hết công
việc, chẳng thiết uống ăn, suốt ngày xót thương thổn thức như đạo hữu ngày nay.
Họ có thừa nghị lực tự chế và trí tuệ quán chiếu về hai mặt sống chết của vạn
loại hữu tình. Họ tỉnh táo trong mọi tình huống nên nghịch duyên thế sự khó có
thể lôi kéo họ từ thái cực này đến thái cực khác, từ thanh bình hạnh phúc đến
rối loạn đau thương chẳng hạn. Tóm lại, nhờ tu tập thiền định và quán niệm vô
thường mà họ luôn có cái nhìn biện chứng:
Hủy hoại vốn mang mầm hủy hoại
Tiêu tan hẳn bắt rễ tiêu tan
Nhân gian sống chết hai đàng
Như mây bạt gió trên ngàn xưa nay.
- Bạch Thế Tôn, họ là ai mà có cái nhìn nhẹ nhàng
thanh thoát như vậy? Công phu tu dưỡng thế nào mới được thần lực thâm hậu như
thế? Con muốn lắng nghe, bạch Thế Tôn.
- Vậy thì hãy lắng nghe, này đạo hữu.
Thế Tôn kể lại câu chuyện tiền thân U-ra-ga (Uraga)
với đầy đủ chi tiết và tóm tắt nội dung theo thể loại niêm vận như sau:
Rắn thường lột xác già nua
Cho cơ thể được bốn mùa thanh tân
Một khi thoát kiếp hồng trần
Ấy là nhẹ gót phong vân thanh nhàn
Giã từ dòng tộc thênh thang
Xả ly quyến thuộc thôn làng ung dung
Khi thi thể cháy phừng phừng
Mắt nào thấy giọt rưng rưng lệ buồn
Tử sinh sinh tử vô thường
Còn chăng nghiệp lực vấn vương hình
hài.
Thế đấy, các bậc hiền trí xưa nay đều xem sanh tử như
vậy cả.
Dừng lại trong giây lát, không thấy đạo hữu hỏi tiếp,
Thế Tôn đọc kệ:
Thân ái sinh ưu sầu,
Thân ái sinh sợ hãi,
Ai thoát khỏi thân ái,
Ắt hết mọi âu lo.
(PC. 212)
Góp chút lý tình:
Trên thế gian này, không có một thứ tình cảm nào sâu
đậm, thiêng liêng và vô điều kiện bằng tình yêu thương của cha mẹ đối với con
cái. Vì sao? Vì con cái là hình hài cốt nhục của cha mẹ lưu truyền. Khi còn nằm
trong bào thai hay tử cung, cung điện của em bé, thì mẹ con là một thể thống
nhất, tuy hai mà một, tuy một mà hai. Mẹ con nối kết nhau bằng một đường dây
huyết mạch, đó là sợi dây rốn. Đến khi hài nhi ra đời, sợi dây ấy phải cắt đi,
mẹ con bấy giờ là hai thực thể, hai sinh mệnh biệt lập theo cái nhìn ngoại
trương của khoa học thực dụng, nhưng với nội hàm, hai thực thể ấy lại càng quan
hệ mật thiết và vô ngã hơn. Lý do dễ hiểu: “Ba thương con vì con giống mẹ, mẹ
thương con vì con giống ba”. Hình hài của con đích thị là sự tổng hợp và nối
tiếp sinh mệnh của cha mẹ. Do đó, cho dù cha mẹ đã qua đời nhưng bóng dáng
người con vẫn là hình ảnh của cha mẹ, và ngược lên nữa là hình ảnh của ông bà
tổ tiên, cửu huyền thất tổ. Chính vì thế mà dân gian có câu: “Con cháu ở đâu,
ông bà cha mẹ theo đó”. Kinh văn Phật giáo gọi mối quan hệ hữu cơ đó là “phi
nhất, phi dị”, tức là không phải một, không phải khác. Và cũng chính vì mối
quan hệ “phi nhất, phi dị” này mà Phật giáo có lễ hội Vu lan, lễ hội truyền
thống nhằm thể hiện lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ, ông bà và tổ
tiên nhiều đời nhiếu kiếp, một lễ hội độc nhất vô nhị trên trái đất này.
Tịnh Minh