Chất Quán Thế Âm có sẵn trong mẹ
nên đâu cần đi chùa mới thấy Quán Thế Âm, ở nhà nhìn mẹ cũng thấy Quán
Thế Âm rồi. Người cũng vậy, người đi vào cuộc đời giúp người này người
kia quên cả bản thân, nơi nào khổ, đến đó xoa dịu, nơi nào than, đến đó
giúp đỡ, người là Bồ tát không sai khác. Một anh bạn đi trên đường bị hư
xe, tìm mãi không thấy chỗ nào vá xe, vừa đi vừa vái Quán Thế Âm. Lát
sau tìm được tiệm sửa xe, vá xong phát hiện trong túi quên mang ví tiền,
người sửa xe cười xí xóa không lấy tiền của anh.
Trên đường về, anh tự nhủ, niệm Quán Âm
có thấy Quán Âm đâu, chỉ thấy bể bánh xe, quên mang bóp tiền, may gặp
được ông sửa xe tốt bụng. Nếu nhìn kỹ, anh sẽ thấy ông sửa xe đó là Quán
Thế Âm. Ông ấy giúp anh sửa xe, lại thông cảm hoàn cảnh quên ví, ông
không lấy tiền, vậy mà anh không nhận ra, lo mơ tưởng Bồ tát ở tận đâu
đâu. Rất nhiều vị Bồ tát hiện thân ra đời trên cõi trần gian này, mình
nào biết, mình bị kẹt vào hình tướng nhiều quá. Lạy tượng Quán Âm đâu
chỉ lạy một bức tượng cầu xin này nọ, lạy để nhắc nhở bản thân tập tâm
Bồ tát, tập lắng nghe, tập chia sẻ, tập tâm từ, tâm bi, tập nhẫn nhục.
Quán Thế Âm hiện thân trong muôn hình
vạn trạng hình dạng để cứu độ chúng sinh, nhất là trong các nạn lửa,
nước, quỷ dữ và đao kiếm. Hiện thân lớn nhất là hiện thân ông Thiện, tức
là tính thiện trong con người của mình. Thiện là điều tốt đẹp cho mình
và người trong cách suy nghĩ, lời nói và hành động. Thiện có tính chất
nhắc nhở, như nói: Nhân chi sơ tính bổn thiện, thiện là bản chất của con
người. Gặp một người cho là ác, không phải họ ác đâu, họ chưa kịp thiện
thôi.
Không cần ngồi suy nghĩ xem Quán Âm là
nam giới hay nữ giới, mất thì giờ, hãy nhìn vào tính thiện của ngài để
học hỏi và thực tập. Biết giới tính rồi không thực tập, biết cũng vô
ích. Gọi là Quan Âm Diệu Thiện, Quan Âm Thị Kính, đơn giản vì các vị này
tu hạnh nhẫn nhục, hạnh từ bi, hạnh lắng nghe, hạnh im lặng sấm sét…
Biết người nào có hạnh này, mình sẵn lòng xá chào vì đó là một vị Bồ
tát.
Gần
đây nghe băng đọc Quan Âm tóc rối nói về một người mẹ hy sinh vì đứa
con của mình mà không mảy may đòi hỏi sự đền đáp. Năng lượng Bồ tát
trong người có thừa, chỉ tại người không sử dụng nó, để nó nằm im lìm và
che lấp bởi những nghiệp bất thiện. Bồ tát hành tâm đại từ đại bi vì
thấy từ bi thôi chưa đủ. Người thực tập từ bi đã thấy mệt, nói chi đến
tâm đại từ đại bi. Có bao giờ người dành ra một tiếng đồng hồ ngồi quán
niệm từ bi hay thực tập từ bi chưa, còn Bồ tát thực tập liên tục không
ngừng nghỉ, mới làm vụ này xong, làm đến vụ khác.
Trong địa ngục, nhất là ngục vô gián,
chúng sinh chịu khổ liên tục, cái khổ này liên tiếp cái khổ khác. Các vị
Bồ tát cũng thế, tu từ hạnh này đến hạnh khác, rất liên tục, rất miên
mật, và vì vậy cứu giúp chúng sinh không biết bao nhiêu mà kể, từ chúng
sinh này đến chúng sinh khác. Thật ra không phải có một vị Bồ tát hay vị
Phật nào đó chạy đến cứu mình, mà do mình tự cứu, chính năng lượng Bồ
tát hay năng lượng Phật trỗi dậy và giúp mình vượt qua khổ nạn.
Bồ tát Quán Thế Âm còn là hiện thân của
ông Ác, ở đây không phải là gieo cái ác cho người khác, mà dùng sức mạnh
của từ bi để dẹp loạn, dẹp tà ma, yêu quái, bùa ngải, yêu chú. Thần chú
Quán Âm và các biểu tượng bắt ấn được sử dụng chế tác năng lượng mạnh
mẽ nhằm đả phá các thế lực đen tối chuyên có âm mưu hãm hại người.
Người có định lực mạnh, ma quỷ sẽ không
làm gì được, hơn nữa cứu nhân độ thế, hoá giải những oan kết ở trần
gian. Cái ác hiện hữu khắp nơi, hữu hình lẫn siêu hình, nếu không tỉnh
thức, người sẽ bị nó dìm chết đến mức không gì có thể cứu vãn được.
Người ta còn hãm hại cả người chết, nói chi đến người sống.
Niệm Bồ tát Quán Thế Âm không phải kêu
Bồ tát tới cứu mà chủ yếu gọi lại, vực dậy năng lượng Bồ tát ngủ yên bấy
lâu trong mình, tập hợp hằng hà sa số năng lượng Bồ tát từ vô lượng
kiếp do sự tu tập mà phát triển bấy lâu, chính năng lượng này tạo ra sức
mạnh đánh đuổi hay hàng phục những gì xấu xa dơ bẩn nhất, thậm chí
chuyển hóa được chúng.
Trong chùa, có nơi thờ ông Thiện và ông
Ác, chẳng qua đó là biểu tượng của Bồ tát Quán Thế Âm. Đôi lúc mình phải
hiền hậu, đôi lúc phải dữ dằn, mạnh bạo lên. Tính dữ dằn này không phải
là lớn tiếng, mạnh ăn, mạnh nói mà sử dụng tính vững chãi, kiên định,
tinh thần mạnh mẽ, từ bi trào dâng để chuyển hóa những cái không từ bi.
Một người chuyên dùng lời chửi bới, mình vẫn im lặng, đến lúc nào đó họ
sẽ im, không chửi bới nữa, vì sức đâu mà chửi. Cái im lặng của mình có
tính dữ dằn, chặn đứng những trận cuồng phong là như vậy.
Vấn đề là có làm chủ được mình không,
khi làm chủ được, tâm như phiến đá, sóng đánh bao lâu cũng không mòn.
Một âm thanh lớn gọi là sư tử hống, không phải ai đó thét lên hay tuyên
bố điều gì, mà lời chia sẻ qua thực chứng tu tập, biểu hiện ở người có
tu có chứng, muốn chứng phải có hoàn cảnh, nên tu cũng cần hoàn cảnh,
nói cách khác là tu trong mọi hoàn cảnh.
Ngày nay thiện ác lẫn lộn, không còn gì
là thiện, và đầy dẫy cái ác. Hơn nữa, cái thiện bị cho là ác và cái ác
được cho là thiện. Cái ác trá hình làm cái thiện, và cái thiện phải giả
ngu giả dại. Thế giới suy đồi tới mức người ta sẵn sàng giết nhau vì một
lời nói hay chút ít tiền bạc. Nhưng ngồi than van thế giới suy đồi có
ích gì, dành thời gian tu tập, không nhiều thì ít, và có thực tập còn
hơn không. Một số người chê bai pháp môn Hiện pháp lạc trú, nhưng thà có
thực tập còn hơn không có. Bản thân đã giỏi chưa mà đi phán xét người
khác. Ngày xưa đức Phật còn không dám phán xét ai, huống chi là mình,
mình đâu là gì giữa cõi đời này.
Ông Thiện là ngài Hộ pháp, ông Ác là
Tiêu Diện Đại Sĩ. Thiện, ác phải rõ ràng phân minh, nếu không thế giới
này loạn, không biết đâu là thật, đâu là giả. Ông Ác hàng phục quỷ dữ
chắc mệt lắm vì quỷ dữ ngày càng đông, trong khi ông Thiện thảnh thơi,
rảnh rang hơn, vì người tu ngày càng ít. Nếu ông Thiện thất nghiệp, thì
thôi rồi, đời này còn gì. Ông Ác thất nghiệp thì hay hơn nhiều. Mỗi
người có Phật tính và cũng có ma tính.
Hồi nhỏ, đọc truyện Phật giáo, đến đoạn
có con ma hiện hình quấy rối đức Phật, tôi tưởng có ma thật. Ma này là
ma trong mình, ma tham, ma sân, ma si, ma kiêu ngạo, ma nghi ngờ, ma tà
kiến và đủ thứ ma khác. Mấy con ma đó sai mình làm điều ác và do mê lầm,
mình phục tùng chúng, ma tính trỗi dậy, biến mình thành một con ma.
Thời đại này, ma nhiều hơn người và ma
đội lốt tu sĩ cũng không ít. Không khéo tu, mình bị sập bẫy, từ thiên
thần trở thành ác quỷ, nhưng ác quỷ bỗng nhiên biết tu, biết hối cải,
quay đầu là bờ, ác quỷ trở thành thiên thần. Nói nhân chi sơ tính bổn
thiện thì cũng nói nhân chi sơ tính bổn ác. Loài hiền nhất là loài người
và loài ác nhất cũng là loài người. Giải quán quân cho cái hiền và cái
ác, loài người giành hết, không loài nào qua mặt được. Mình phải biết
lợi dụng tính thiện trong mình để làm giàu bản thân và chuyển hoá cái ác
đi.
Bồ tát Quán Thế Âm là hiện thân cả ông
Thiện lẫn ông Ác, thiện vì giúp đời, và ác là hàng phục người. Như con
người, có cả thiện lẫn ác nhưng cái ác của con người, như đã nói ở trên
là cái ác của sự bệ rạc, tha hoá và suy đồi. Một người bạn rủ đi nhậu,
biết vậy là phạm giới, nói không với lời mời đó, tìm cách từ chối khéo,
mình vui, bạn cũng vui. Mình sử dụng nghị lực từ chối vì muốn giữ giới,
đem lại lợi ích cho mình, đây gọi là lấy sức mạnh chống lại tà dục, bằng
không mình làm đệ tử ma men. Người say gọi là ma men, chẳng ai gọi là
bồ tát men cả.
Nhìn bức tượng ông Ác, chắc mấy đứa nhỏ
sợ lắm, hai mắt ông mở to trừng trừng, lưỡi dài như muốn chạm đến mình.
Ông Ác vậy chứ hiền lắm, chỉ cần mình biết thực tập tình thương, ông
đâu làm gì mình, ông sẽ giao nộp mình cho ông Thiện. Còn ông Thiện trông
coi những người thiện vậy mà dữ, nếu không lo thực tập tình thương, ông
sẽ đi méc ông Ác. Tôi hay nói vui như vậy với mấy đứa con nít.
Hồi còn nhỏ, mẹ dạy tôi phải biết làm
điều thiện. Mỗi tháng, mẹ đưa tôi một cuốn sách Phật giáo để đọc, rồi
sau đó phải viết một bài báo cáo, xem mình học và thực tập được gì từ
cuốn sách đó. Có người mẹ như thế thật may mắn vì biết hướng con mình đi
về nẻo lành, không như những bà mẹ khác, bắt con cái học thêm đủ thứ,
dạy kiếm tiền, dạy leo lên nấc thang danh vọng cao nhất. Nhờ mẹ mà bây
giờ tôi biết tu, biết bố thí, biết viết những dòng chữ này.
Tôi có nhiều sư phụ, nhưng không ai giỏi
như mẹ, mẹ còn là sư phụ tâm linh. Người ta thường nói mẹ hiền Quán Thế
Âm, đi đâu không ai bằng mẹ. Bồ tát Quán Thế Âm không thể có mặt mọi
nơi nên đã hiện thân trong hình tượng người mẹ. Đâu cần vào chùa mới
thấy Bồ tát, ở nhà cũng thấy Bồ tát rồi. Nói tu hạnh Bồ tát chi cho xa
vời, tu hạnh mẹ là hay hơn cả. Bất cứ ai, mình cũng thương như mẹ, như
cha, như con cái, như anh chị em, đó là hạnh của mẹ.
Kinh Sức Niệm Quan Âm dạy khi thấy khổ
quá, niệm Nam mô Bồ tát Quan Thế Âm, mọi tai nạn đều vượt qua, nếu có,
sức tàn phá của nó giảm đi ít nhiều. Ngày xưa nhiều người vượt biên, phó
mặc sự sống cho biển cả, rất nhiều người niệm Quán Thế Âm mà đến được
bờ bên kia. Bây giờ, người ta niệm để cầu công thành danh toại, hoặc chờ
đến khi có nạn mới niệm. Cái gì gọi là cứu khổ cứu nạn? Muốn Bồ tát cứu
thì trước hết hãy tự cứu mình, nói cách khác là tự cứu trước khi trời
cứu.
Người ta đi chùa cầu xin nhiều hơn là
thực tập, hay triệu tập thỉnh chư Tăng làm lễ cầu siêu nhiều hơn tự siêu
thoát. Mình có khả năng tự cứu mạnh mẽ hơn ai hết, năng lượng Bồ tát có
sẵn trong mình, niệm Bồ tát là niệm chính mình và khi được cứu là do
hiệp lực của nhân duyên tốt phát khởi.
Nhiều người cầu nguyện hoài mà không
thấy thành tựu vì nhân duyên không đủ hoặc nghiệp lực chặn lại, chưa cho
phép quả tốt phát sinh. Không có ai tu dùm và chẳng có ai độ mình bằng
chính bản thân, tự tu thì tự độ, không tu thì không tự độ được. Hạnh
phúc nằm trong lòng bàn tay, không ai lấy nó đi hay không ai mang đến
cho, tự mình thực tập, tự mình có hạnh phúc.
Bồ tát Quán Thế Âm là một biểu tượng,
vấn đề là mình có thực tập hay không hay cứ mãi đi vòng quanh. Trong mỗi
cuốn sách, kết thúc bài là tôi ghi chúc quí vị an lạc và thảnh thơi.
Không biết có an lạc và thảnh thơi nổi không nhưng tôi vẫn cứ chúc. Chúc
là một chuyện còn thành tựu hay không, ăn thua ở quí vị. Nếu có thực
tập, quí vị sẽ an lạc, thảnh thơi, còn không, ngàn câu chúc cũng trở
thành vô nghĩa.
Quí vị vong linh lắng nghe kỹ, nếu đi về
nẻo lành, quí vị sẽ mau siêu thoát, bằng không thì cứ như vậy hoài, cho
dù tôi thương quí vị cũng không đủ bằng việc quí vị thực tập. Một người
đi qua sông, thay vì chờ người đến bắc cây cầu, thì tự mình đóng
thuyền hay tự học bơi, qua sông sẽ trở thành chuyện dễ dàng. Mọi thứ đều
do tâm mà ra, tâm đẹp, sinh về cõi đẹp, tâm xấu, sinh về cõi xấu, vậy
thôi.
Đàm Linh Thất