Chùa Bửu Minh Gia Lai - Mobile
Nghiên cứu so sánh học thuyết về nghiệp trong Bà la môn, Kỳ na, và Phật giáo
Thích Nguyên Đăng
29/09/2011 21:23 (GMT+7)




 

Lời Dẫn Nhập
 
Trong đời sống thường nhật dường như Nghiệp đã trở thành một thuật ngữ quen thuộc trong đời sống của mọi người. Khi trải nghiệm một cảm giác nào đó, dù hài long hay phật ý, tốt hay xấu, thành công hay thất bại, chúng ta thường có khuynh hướng đem Nghiệp ra đỗ lỗi. Khi cảm giác hạnh phúc hiện hữu trong chúng ta, chúng ta thường cho rằng, đó là do nghiệp tốt, thiện từ quá khứ của chúng ta. Ngược lại, khi cảm nhận sự thất bại, bất an, hay khổ đau, chúng ta thường đổ lỗi cho nghiệp xấu, ác. Điều đáng nói là, thậm chí không ít phật tử đã quy y Tam Bảo lâu năm vẫn cho rằng đây là Nghiệp của phật giáo. Từ đó dấy lên ý kiến cho rằng không nhiều người biết chính xác Nghiệp là gì. Thực sự không khó lắm để nhận ra tại sao ít người hiểu tường tận về nghiệp. Đó là bởi vì nghiệp có lịch sử phát triển lâu dài.
 
Trong khả năng hiểu biết của người viết, tại Ấn Độ, có ba tôn giáo bàn đến thuyết Nghiệp: Bà La Môn giáo, Kỳ Na Giáo, và Phật giáo. Bởi thế, chắc chắn rằng ý nghĩa của Nghiệp hẳn khác nhau giữa ba tôn giáo này. Cách dùng từNghiệp của người bình thường cho chúng ta biết rằng họ đánh đồng Nghiệp với thuyết định mệnh hay tiền định (determinism). Điều đó hàm ý rằng họ không thể phân biệt Nghiệp của Phật giáo với hai tôn giáo kia.
 
Và đó là lý do người viết dùng bài nghiên cứu này để khảo sát Nghiệp trong từng tôn giáo riêng biệt cũng như học thuyết về Nghiệp được phát triển như thế nào bắt đầu từ Bà La Môn giáo, đến Kỳ Na giáo, và sau cùng là Phật giáo. 
 
Học Thuyết về Nghiệp trong Bà La Môn Giáo
 
Học thuyết về Nghiệp khống chế nền triết học Ấn Độ trước, trong, và sau thời đức Phật. Chúng ta không nghe tôn giáo nào khác bàn về Nghiệp ngoài ba tôn giáo: Bà La Môn giáo, Kỳ Na giáo, và Phật giáo. Trước hết, tôi muốn bàn về Nghiệp trong Bà La Môn giáo. Theo triết học Ấn Độ, thể loại văn học sớm nhất của nước này là Vệ Đà (Vedas), được sáng tác sớm nhất vào khoảng thế kỷ 15 trước tây lịch[1]. Có bốn loại Vệ Đà: Rg Veda, Sāma Veda, Yajur Veda, và Athurva Veda. Giới nghiên cứu cho rằng Rg Veda, Sāma Veda, Yajur Veda lànhững phiên bản gốc, còn  Athurva Veda được thêm vào thời gian sau này. Mỗi tác phẩm Vệ Đà được chia thành ba phần: Saṁhitās, Brāhmanas, và Āranyakas. The Upanisads, vốn chứa đựng nhiều lĩnh vực triết lý, tạo ra phần cuối của Vệ Đà (Āranyakas). Trong số bốn tác phẩm Vệ Đà, phải nói rằng, Rg Veda có thẩm quyền và giá trị văn học hơn cả.
 
Điểm cơ bản đầu tiên trong thuyết nghiệp cùa Bà La Môn giáo được nói đến trong phần Rta thuộc Rg Veda. Về mặt nghĩa đen, Rta là trật tự của vũ trụ, vạn vật[2].
 
Chính từ cái Rta này, người ta tin quy luật về Nghiệp trong tư tưởng Ấn Độ được phát sinh. Quy luật này lan tỏa khắp vũ trụ. Nó điều khiển thiên nhiên một cách nhất quán. Thượng đế hay con người đều phải tuân thủ quy luật Rta. Đây là quy luật đạo đức, quy luật xã hội cũng như quy luật tế thần. Để mang lại kết quả tốt đẹp, mọi hành động trong lễ tế thần phải tuân thủ quy luật của Rta. Theo những gì được đề cập trong Rg Veda, tế thần được tin là một hình thức của Nghiệp, cái đem lại những kết quả như trông đợi nếu hành động được thực hiện một cách “thích hợp”. Khi hành lễ tế thần, người ta phải tuân thủ từng bước một cách tuyệt đối. Thậm chí những sai khác trong từng chi tiết nhỏ nhặt lúc hành lễ cũng đủ làm hỏng tất cả khóa lễ tế thần. Nhưng nếu lễ tế thần được thực hiện một cách thích hợp, kết quả tốt đẹp và được trông đợi chắc chắn sẽ xảy ra. Không ai hay bất cứ điều gì có thể ngăn cản được. Hay nói cách khác, người ta tin chắc rằng tế thần được thực hiện theo giáo lý Vệ Đà tạo ra Nghiệp tốt đẹp; nghiệp này sẽ đem lại kết như ý. Tế thần trong Bà La Môn giáo được cho là một loại trách nhiệm duy nhất. Nó được gọi là hành động (Karma or Kriya) và là quy luật vĩnh hằng, không thay đổi. Những buổi lễ huyền bí, dù tốt đẹp hay xấu ác, đạo đức hay phi đạo đức, đều đã được sắp đặt để phát sinh những kết quả của nó. Do đó, cái Nghiệp trong Bà La Môn giáo không liên quan gì đến tái sanh. Người ta nói đến tốt đẹp hay xấu ác với ý nghĩa rằng, họ làm lễ tế thần đúng hay sai theo các bước đã quy định sẵn. Sau khi chết, người ta sẽ được hỏa táng, trở về với tổ tiên, và sống ở trên mặt trời. Còn khi trở lại mặt đất, họ sẽ có thân thể, đoàn tụ với gia đình. Điều này được hiểu rằng có hai thế giới: thế giới này và thế giới bên kia (ngụ ý thế giới tổ tiên mà họ trở về sau khi chết).      
 
Trong giai đoạn phát triển về sau của Bà La Môn giáo được gọi là giai đoạn Upanisads, học thuyết về Nghiệp có liên hệ đến tái sanh. Bṛhadāraṇyaka Upaniṣads nói rằng sau khi chết, người ta có hai con đường để đi theo nghiệp mà họ đã thực hiện trong đời hiện tại: (1) con đường về với thượng đế (devayāna) và (2) đường về với tổ tiên (pitriyāna). Bṛhadāraṇyaka Upaniṣads VI.2.15 nói rằng: “Những ai biết tế thần và những ai trú trong núi rừng hoang vắng, tin tưởng, và vang vái thần linh, họ sẽ đi xuyên qua ngọn lửa, từ ngọn lửa đi vào ngày, từ ngày đi vào mặt trăng tròn, ở tại mặt trăng tròn sáu tháng khi mặt trời xoay về hướng bắc; trong sáu tháng ở mặt trăng, người ta sẽ đi vào thế giới của thượng đế, từ thế giới của thượng đế đi vào mặt trời, từ mặt trời đi vào vùng sấm sét; sấm sét sẽ đưa họ về với thế giới Phạm Thiên (Brahman). Những người có địa vị cao sẽ ở lại thế giới Phạm Thiên thời gian lâu nhất. Họ sẽ không trở lại nữa.” Bṛhadāraṇyaka Upaniṣads VI.2.16 mô tả cũng tương tự như vậy: “Hay nói cách khác, những ai đến được thế giới thiên đường bằng cách tế thần linh, bằng cách ban thưởng, bằng cách tu khổ hạnh hành xác, họ sẽ đi vào làn khói, từ làn khói đi vào đêm, từ đêm đi vào mặt trăng khuyết, ở lại mặt trăng khuyết sáu tháng khi mặt trời xoay về hướng nam; trong sáu tháng ở mặt trăng, người ta sẽ đi về thế giới tổ tiên; và từ thế giới tổ tiên, người ta sẽ đi vào mặt trăng. Đến mặt trăng, người ta sẽ thành thức ăn. Tại đấy, họ sẽ trở thành thượng đế, khi họ nói với vua Soma, mặt trăng: “Thăng! Giáng!” Khi kết thúc vòng này, họ sẽ đi vào bầu trời, từ bầu trời đi vào gió, từ gió đi vào mưa, từ mưa đi về trái đất. Đến trái đất, họ lại trở thành thức ăn. Một lần nữa, họ lại nương vào lửa của con người và tái sanh bằng lửa của người phụ nữ. Rồi lên thế giới thiên đường một vòng nữa, họ lại luân chuyển trong cái vòng tương tự”. “Tuy nhiên, những ai không biết hai con đường này sẽ trở thành côn trùng, sâu bọ, và rắn rít.”    
 
Như vậy, Nghiệp trong Upaniṣads không có liên hệ gì đến đạo đức, luân lý và sự chủ ý bởi vì không có sự khác biệt giữa cá nhân và vũ trụ, giữa tiểu ngã và đại ngã (microcosm và macrocosm). Trên cấp độ vũ trụ, Brahman và ātmanđược hiểu là đồng nhất. Ngã ((Ātman) là thường hằng, bất biến, vì thế không thể thành bất cứ điều gì khác. Dựa trên khái niệm về Ātman, cho dù tôi làm ác trong đời này, tôi vẫn sẽ không bị tác động bởi hành động ác, bởi vì “cái tôi” là vĩnh hằng, không thay đổi. Nói cách khác, theo học thuyết về nghiệp của Upaniṣadsātman là người tạo nghiệp (kartṛ) nhưng cũng là người thụ hưởng kết quả của nghiệp (bhoktṛ). Nghiệp trở thành một hoạt động và tri nhận cái Ngã vĩnh hằng trong con người[3]. Chúng ta có thể tuyên bố một cách chắc chắn rằng Nghiệp trong Rg Veda và Upaniṣads là một loại tiền định bởi vì người tạo nghiệp không phải chịu một trách nhiệm đạo đức nào và sở hữu một cái Ngã bất biến thường hằng.
 
Nghiệp Trong Kỳ Na Giáo
 
Phải thừa nhận rằng đức Phật và những người Kỳ Na Giáo chống lại học thuyết nghiệp của Bà La Môn, cho rằng nghiệp là một loại hành động có tính nghi lễ hay nghi thức (ritual act), bằng cách đưa ra một quan điểm đạo đức về nghiệp. Người Kỳ Na giáo cũng tin rằng nghiệp là một quy luật bất biến, không thể thay đổi, nhưng lại cho rằng nghiệp tự thân nó vốn dĩ đã có trách nhiệm đạo đức. Lời phát biểu sau đây cho thấy họ cùng quan điểm với hầu hết các tôn giáo ở Ấn Độ có bàn về nghiệp: “Mỗi hành động phải dẫn đến việc tưởng thưởng hoặc giáng phạt người thực hiện hành động đó.” Tuy nhiên, điểm khác biệt chủ yếu giữa Kỳ Na giáo và các tôn giáo Ấn Độ khác là, người Kỳ Na giáo khẳng định nghiệp tự nó là một loại vật chất (matter), một loại bụi hay một loại tiểu nguyên tử (particles) hơn là những thành phần tâm lý do các trường phái khác đưa ra. Những hạt bụi này hiện hữu khắp nơi trong vũ trụ; bụi bị hút vào cái linh hồn (Jīva) bởi hành động của linh hồn. Như các trường phái chính thống giáo của Ấn Độ (darśanas), người Kỳ Na giáo mô tả linh hồn hiện hữu khắp nơi hoặc là rất bé nhỏ để nhấn mạnh bản chất bất di bất dịch tuyệt đối của linh hồn trong tất cả sinh thể. Ngoài ra, Kỳ Na giáo cũng xem bản chất của linh hồn có thể thay đổi được[4].
 
Họ cho rằng nếu không thay đổi được thì việc truy tìm giải thoát sẽ vô hiệu. Nghiệp là một loại bụi bồng bềnh giữa hư không bám vào linh hồn bởi từ những hoạt động cố ý của mỗi con người: thân, khẩu, và ý. Tuy nhiên, hoạt động cố ý không gieo nhân luân hồi (saṃsara). Chỉ khi bụi nghiệp bám vào một cái linh hồn bị câu thúc bởi hành động, lời nói, hay ý nghĩ xấu ác như những phiền não (kaṣāyas): sân (dveṣa) và tham (rāga), thì nó mới đưa đến kết quả xấu ác; nhưng bụi nghiệp sẽ không có ảnh hưởng lên một linh hồn đã giải thoát (vītarāga) như một đấng toàn năng (kevalin). Người Kỳ Na giáo tin rằng, với tất cả những linh hồn khác, mỗi một hành động cố ý chắc chắn sẽ phát sinh phiền não. Kết quả của nghiệp phụ thuộc vào mức độ cố ý. Chẳng hạn, đố kỵ hay ganh tỵ với thành công của người khác sẽ tạo ra một loại nghiệp (karma) khiến người ta thiếu sự ảnh hưởng và nghèo túng về sau. Lại nữa, những loại nghiệp này bám vào linh hồn bao lâu và ảnh hưởng tức thời mà nó để lại trên tác nhân còn tuỳ thuộc vào số lượng và bản chất của phiền não như sân hận, kiêu mạng, và tham lam.   
 
Kỳ Na giáo phân nghiệp thành hai loại chính: (1) nghiệp phá hủy (ghātiyā), loại nghiệp có tác động tiêu cực lên phẩm chất của linh hồn và (2) nghiệp không phá hủy (aghātiyā)loại nghiệp tạo ra trạng thái và điều kiện cụ thể để luân chuyển. Mỗi loại nghiệp này còn có những nghiệp riêng. Nghiệp phá hủy (ghātiyā) chia thành bốn loại: (a) nghiệp tạo ra sự ngu si (mohanīya), (b) nghiệp làm mê mờ sự hiểu biết (jñānāvaraṇīya), (c) nghiệp làm mê mờ sự nhận thức (darśanāvaraṇīya), và(d) nghiệp chướng ngại (antarāya). Nghiệp không phá hủy (aghātiyā) chia thành bốn loại: (a) nghiệp tạo ra cảm giác (vedanīya), (b) danh nghiệp (nāma), (c) thọ nghiệp (āyu), và (d) phả hệ nghiệp (gotra).   
 
Chúng ta khảo sát nghiệp phá hủy (ghātiyātrước. Loại nghiệp đầu tiên của nhóm này là nghiệp tạo ra sự ngu si (mohanīya); nó khiến linh hồn (jīva) trở nên bối rối và tham dục. Nghiệp ngu si có hai loại: nghiệp làm mê mờ sự sáng suốt (darśana-mohaṇīya), và nghiệp che lấp bản tánh (cāritra-mohaṇīya). Nghiệp làm mê mờ sự sáng suốt (darśana-mohaṇīya) khiến linh hồn không tinh tường để nhận ra bản tánh hoặc ngăn chặn linh hồn chứng đắc giác ngộ; chúng tạo ra những quan điểm sai lầm (mithyātva). Quan điểm sai lầm có thể là một trong năm loại tà kiến sau: (i) cực đoan (ekānta), xem bản chất của mọi sinh thể là vĩnh cửu, thường hằng, bất diết, hoặc hủy diệt (thường kiến và đoạn kiến), (ii) qui một đặc tính nhất định nào đó cho một sự vật hay một hiện tượng mà đặc tính này trái ngược với bản chất của sự vật hay hiện tượng đó (viparīta), như cho rằng giết súc vật để tế thần linh sẽ đưa người ta lên thiên đường, (iii) nghi ngờ về chân lý  đã học (saṃśaya), (iv) có tính phóng khoáng, tin tất cả mọi học thuyết tôn giáo đều bình đẳng trong khi thực sự chúng không bình đẳng, (v) vô minh hay không nhận thức rõ điều gì tốt và điều gì xấu cho linh hồn (ajñāna). Nghiệp nghiệp che lấp bản tánh (cāritra-mohaṇīya) tạo ra nhiều loại phiền não (kaṣāya) sân hận (dveṣa) và tham ái (rāga); sân hận được chia thành thù hận (krodha) và kiêu mạng (māna), tham ái được chia thành mánh lới (māyā) và tham lam (lobha). Bốn phiền não này được sắp xếp theo cấp độ từ thô đến tế. Loại phiền não thô nhất được gọi là phiền não từ vô thỉ (anantānubandhī), cái tạo ra hoang tưởng và quan điểm sai lầm. Ngoài ra, những phiền não này bao gồm ba phiền não vi tế hơn: phiền não ngăn chặn xả ly phần đoạn(apratyākhyānāvaraṇa), phiền não ngăn chặn xả ly toàn phần (pratyākhyānāvaraṇa), và phiền não âm ỉ (saṃjvalana). Hai loại phiền não ngăn chặn xả ly phần đoạn và xả ly toàn phần ngăn chặn phẩm hạnh của con người khiến họ không giữ được giới của người tại gia và giới của người xuất gia, phiền não âm ỉ tạo ra sự giải đải, biếng nhác trong thiền định và gây sự tham ái vi tế trong đời sống.
 
Bên cạnh phiền não kaṣāya, Kỳ Na giáo còn có loại phiền não phụ trợ (no-kaṣāya); loại phiền não này tạo ra chín loại phiền não: phấn chấn (hāsa), khoái lạc (rati), không khoái lạc (arati), sầu (śoka), sợ hãi (bhaya), ghê tởm (jugupsā), nhục dục về nam, về nữ, và về cả nam lẫn nữ (strīveda, puṃveda, napuṃsakaveda). Chín loại phiền não phụ trợ này luôn có mặt cho đến khi những phiền não chính yếu đã được trừ khữ.
 
Nhóm thứ hai thuộc nghiệp phá hủy là nghiệp làm mê mờ sự hiểu biết (jñānāvaraṇīya). Nhóm này bao gồm năm loại: nghiệp phá hủy chức năng của căn và tâm, có thể phá một hay nhiều căn (matijñānāvaraṇīya), nghiệp phá hủy khả năng lý luận (śrutajñānāvaraṇīya), nghiệp phá hủy khả năng biết được những sự kiện tương lai vượt ngoài khả năng thông thường của giác quan như thiên nhãn hay nhĩ nhãn (avadhijñānāvaraṇīya), nghiệp phá hủy khả năng nhận biết được tư tưởng của người khác (mahaḥparyayajñānāvaraṇīya); khả năng đã có sẵn nơi những người đã trừ khữ nghiệp làm mê mờ sự sáng suốt (darśana-mohaṇīya), và nghiệp phá hủy khả năng toàn giác.
 
Nhóm thứ ba thuộc nghiệp phá hủy là nghiệp làm mê mờ sự nhận thức (darśanāvaraṇīya). Nhóm này bao gồm bốn loại: nghiệp phá hủy nhận thức bằng phương tiện mắt (cakṣurdarśanāvaranīya), nghiệp phá hủy nhận thức bằng các giác quan khác (acakṣurdarśanāvaranīya), nghiệp phá hủy nhận thức có trước avadhijñānā (xem nghiệpavadhijñānāvaraṇīya ở trên.
 
Nhóm thứ tư thuộc nghiệp phá hủy là nghiệp chướng ngại (antarāya). Nhóm này vận hành trực tiếp để làm chướng ngại sự nổ lực (vīrya) của linh hồn (jīva) và tạo ra sự rung động hay di chuyển (yoga) của thân, khẩu, và ý. Sự nổ lực được hiển hiện qua sự rung động hay di chuyển (yoga); những sự di chuyển này thu hút những bụi nghiệp. Nghiệp chướng ngại được cho là làm suy yếu một tính chất của linh hồn. Sự nhàm chán thế gian cũng được cho là kết quả của nghiệp chướng ngại.[5]
 
Một loại nghiệp chính yếu thứ hai là nghiệp không phá hủy (aghātiyā). Nhóm đầu tiên của loại này lànghiệp tạo ra cảm giác (vedanīya); loại nghiệp định đoạt liệu linh hồn (jīva) có tạo ra cảm giác như ý (sātavedanīya) hay tạo ra cảm giác không như ý (asātavedanīya). Loại nghiệp thứ hai là danh nghiệp (nāma); một linh hồn được nhận dạng là chúng sanh trên thiên đường, súc sanh, và chúng sanh trong địa ngục bởi cái nghiệp này. Nó cũng định đoạt những hình thức tái sanh này và tạo ra thân thể, giác quan, tâm thức, giới tính, và màu sắc tương thích. Loại thứ ba là thọ nghiệp (āyu), xác định tuổi thọ trong đời của chúng sanh theo giới hạn chủng loại mà linh hồn tái sanh vào; chẳng hạn, sống 80 năm được ấn định bởi cái thọ nghiệp mà chúng sanh phải là người, bởi vì chúng sanh trên thiên đường sống lâu hơn và súc sanh sống ngắn hơn. Chính đặc tính này sự khiến thọ nghiệp quan trọng nhất trong loại nghiệp aghātiyāLoại cuối cùng của nghiệp không phá hủy là phả hệ nghiệp; loại này định đoạt môi trường tái sanh đưa đến đời sống tâm linh. Dựa theo loại nghiệp này, các trường phái khổ hạnh lâm (śramaṇa) mô tả một người phát nguyện tu khổ hạnh là gia nhập vào một dòng phả hệ mới[6].  
 
Như vậy, nghiệp trong Kỳ Na giáo đã mang ý nghĩa đạo đức, luân lý. Đó có lẽ là lý do tại sao có người phát biểu rằng: “Tôi không biết làm thế nào mà người ta lại phóng đại tầm quan trọng về luân lý hóa thế giới của đức Phật, điều mà tôi xem là điểm khởi đầu trong lịch sử văn minh.”[7] Như đã bàn trước đây, Kỳ Na giáo và đức Phật chỉ trích mạnh mẽ việc tế thần của Bà La Môn giáo. Hơn thế nữa, nghiệp trong Kỳ Na giáo được hiểu là kết nối với linh hồn (jīva). Và cũng đã trình bày ở trên, Nghiệp của Kỳ Na giáo là những loại bụi cực tiểu, bởi thế người ta thu hút nhữngnghiệp bụi cực tiểu khi họ hành động, suy nghĩ, hay nói năng. Đó là bụi nghiệp hấp dẫn linh hồn; lại nữa, đặc tính của những linh hồn tiêu cực dung chứa những phiền não như thù hận, sân nhuế, và những phiền não này khiến linh hồn dễ bám víu vào. Một người không có những phiền não, nghiệp sẽ không bám được.[8] Do đó, tín đồ Kỳ Na giáo tin rằng người ta không thể tạo thiện nghiệp, và thiện nghiệp vẫn có thể mang lại kết quả xấu. Theo những gì được miêu tả trong kinh Upāli, Nigaṇṭha Dīghatapassī nói với đức Phật rằng, trong ba loại hành động – thân, khẩu, và ý – thân nghiệp là những nghiệp xấu nhất.[9] Cho nên, thậm chí những hành động thiện cũng cần phải tránh. Đức Phật không đồng ý với quan điểm này. Ngài nói rằng, ý nghiệp xấu (sẽ bàn ở phần dưới đây) chính là những hành động xấu ác nhất. Để tránh và loại trừ nghiệp, Kỳ Na giáo đưa ra hai cách: (1) không thu hút nghiệp bằng cách ngưng hành động, và (2) loại trừ những nghiệp phát triển trên linh hồn bằng cách sống tuân theo những giới luật của Kỳ Na giáo.
Đối với việc không thu hút nghiệp, Kỳ Na giáo thực hành khổ hạnh bằng cách đứng thẳng và không bao giờ ngồi, bởi họ xem những việc này là sự biểu đạt lòng mong cầu, rằng “không tạo nghiệp mới và loại trừ nghiệp mới qua việc hành xác”[10]. Không tạo nghiệp mới hàm ý trạng thái bất động như đứng thẳng, không bao giờ ngồi hoặc nằm.  
 
Sống theo giới của Kỳ Na giáo là thực hạnh Vrata-pratimā.  Vrata nói đến những người đã quy y nắm đấng linh thiêng [11] và vâng giữ tám mūlaguṇas.[12] Sau khi đã thực hành những nghi thức này, người ta mới được xem có khả năng giữ giới của Kỳ Na giáo (vrata). Vrata giúp người thực hành kiểm soát nghiệp để bảo đảm rằng những hoạt động của người tại gia không mang lại phiền não, bởi vì phiền não sẽ khiến họ luân chuyển trong luân hồi (saṃsāra). Kỳ Na giáo đưa ra 12 giới vratas, bao gồm 5 aṇuvratas, 3 guṇavratas, và 4 śikṣāvratas.
 
Năm aṇuvratas là giới bất bạo động (Ahiṃsā-vrata). Giới bất bạo động là giới cực kỳ quan trọng trong Kỳ Na giáo. Kỳ Na giáo phân loại bạo động (hiṃsā) thành 3 loại: tất cả những hành động liên quan đến việc cố ý gây bạo động (saṃkalpajā-hiṃsā), bạo động ập đến tình cờ (ārambhajā-hiṃsā), bị bắt buộc gây bạo động để tự vệ (virodhī-hiṃsā). Lập mưu giết người là phạm tội saṃkalpajā-hiṃā; giẫm kiến không cố ý trong lúc đang đi là phạm tộiārambhajā-hiṃsā. Loại ārambhajā-hiṃsā và virodhī-hiṃsā không bắt buộc với người tại gia vì hành động thường ngày của họ không thể tránh khỏi những vi phạm này; thậm chí họ có thể bị bắt buộc nhập ngũ như dòng Sát-đế-lợi (kṣatriya) và giết kẻ thù để tự vệ, bởi thế, họ phạm virodhī-hiṃsā. Theo Kỳ Na giáo, người tại gia có thể được tha thứ nếu họ phạm ārambhajā-hiṃsā và virodhī-hiṃsā.[13]Giới này rất giống với giới thứ nhất của Phật giáo – không sát sanh.
 
Giới thứ hai là giới nói lời chân thật (satya-vrata). Kỳ Na giáo nói rằng nói dối liên quan đến bạo động vì mọi lời nói dối đều cố ý và bị nhiễm ô bởi những phiền não; do đó, linh hồn (jīva) bị tổn thương. Giới nói lời chân thật yêu cầu phải thận trọng trong mọi lời nói vì chúng có thể đem lại những hậu quả tai hại; chẳng hạn, người ta có thể không nhất thiết phải nói lời chân thật nếu nó khiến chúng sanh bị sát hại. Khi ở trong tình thế tấn thoái lưỡng nan, tốt nhất là giữ im lặng. Giới này tương tự giới thứ tư – không nói dối của Phật giáo.
 
Giới thứ ba là không trộ cắp (asteya), tức không lấy vật không cho; giới này giống giới thứ hai của Phật giáo. Giới thứ tư là không tà hạnh (brahma vow), tức tránh quan hệ tình dục với vợ hoặc chồng của người khác. Quan hệ tình dục bị cấm tuyệt đối với người xuất gia; giới này tương tự với giới thứ ba của Phật giáo.
 
Giới thứ năm là không tích trữ (aparigraha). Kinh điển Kỳ Na giáo chia tích trữ thành hai loại: tích trữ nội tại và tích trữ ngoại tại. Tích trữ nội tại gồm 4 phiền não kaṣāya và chín phiền não no-kaṣāya (xem phần trên). Bởi thế, người ta nên tránh những hoạt động tạo ra chúng. Tích trữ ngoại tại bao gồm 9 thứ bên ngoài: đất đai, nhà cửa, bạc, vàng, súc vật, thức ăn dinh dưỡng như gạo hay lúa mì, đầy tớ nam, đầy tớ nữ, và áo quần. Hành trì giới không tích trữ, người tại gia giảm thiểu tham lam, không bấm chấp vào tài sản, vì thế họ bảo vệ linh hồn không bị kẹt vào nghiệp và để làm tiền đề cho đời sống xuất gia.[14].
 
So với năm giới của Phật giáo, khác biệt lớn nhất là ở chổ, trong khi giới thứ năm của Phật giáo là không uống chất gây say cuồng, thì giới thứ năm của Kỳ Na giáo là không tích trữ.   
 
Ba giới gunāvratas là diễn giảng chi tiết về aṇuvratas.Gunāvratas được thiết lập để hạn chế phạm vị hoạt động của con người, qua đó nghiệp được giảm đến mức độ thấp nhất. Giới đầu tiên của gunāvratas là digvrata, trong đó người ta hạn chế di chuyển trong phạm vi nhất định; và bằng cách đó không gây thương tổn trong vùng của họ. Giới này tương tự như những oai nghi mà hàng xuất gia phải tuân giữ trong ba tháng an cư vào mùa mưa (PvassaSk:varṣaḥ). Giới thứ hai thuộc gunāvratas là bhogopabhoga-parimāṇavrata; giới này buộc người hành trì không ăn đêm (rātri-bhojana) và không uống nước chưa được lộc. Lý do không ăn đêm là tránh gây thương tổn đến những sinh vật bé nhỏ như trùng, sâu, kiếng trong lúc nấu ăn. Không uống nước chưa được lộc có thể vì nó chứa sinh vật bé nhỏ. Gunāvratas thứ ba là giới anarthadaṇḍavrata; giới này tương tự với chánh mạng thuộc Bát Chánh Đạo trong Phật giáo. Đó là không cờ bạc, chặt cây, đào đất, buôn bán chất độc hại và vũ khí, và gây chiến tranh.
 
Bốn giới śikṣāvratas liên hệ đến lễ nghi. Giới đầu tiên là deśāvakāśika, trong đó người hành trì hạn chế di chuyển trong khu vực hẹp hơn digvrata. Giới này được xem là giá giới (giới nhỏ) và kéo dài không hơn một hay hai ngày; chẳng hạn, người ta không di chuyển xa hơn trong một biên giới cụ thể như khuôn viên tự viện, phạm vi ngôi làng.Śikṣāvratas thứ hai làsāmāyika, có nghĩa là trầm tĩnh hay tự kiềm chế; giới này hàm ý rằng người ta cần tu tập thiền định một thời gian ngắn. Śikṣāvratas thứ ba liên hệ ăn kiêng trong bốn ngày (ngày mồng 1, 8, 14, và 15). Ăn kiêng ở Kỳ Na giáo là tránh ăn và uống. Śikṣāvratas thứ tư là bố thí (dāna); người tại gia phát tâm cúng dường người xuất gia và xem ai đáng cúng dường. Trong bốn śikṣāvratasdeśāvakāśika và dāna không áp dụng cho người xuất gia, vì họ không có nơi dừng chân cố định và không có tài sản[15].
 
 Nghiệp Trong Phật Giáo
 
Đức Phật thuyết giảng giáo lý về Nghiệp là để phản hồi lại nghiệp của Bà La Môn giáo và Kỳ Na giáo. Đức Phật tuyên bố nghiệp là hành động cố ý (cētana). Trong cái nghiệp của Bà La Môn, như đã nói ở phần trước, những người đạt đến giác ngộ (gnosis) đi xuyên qua mặt trời vào vùng sấm sét khi họ chết; từ đó, họ sẽ đi vào thế giới Phạm Thiên (brahma-lokān), trú ở đó, và sẽ không bao giờ tái sanh nữa. Phật phản hồi điều này trong Kinh Tam Minh (Tevijja Sutta) rằng,[16] cho dù họ thấy mặt trời và mặt trăng đi nữa, họ thậm chí cũng không biết lối vào, huống là lối vào thế giới Phạm Thiên (Brahmā). Phật tranh luận với Bà La Môn rằng, người Bà La Môn tự cho họ có đạo đức thanh tịnh, nhưng kỳ thực họ không có đạo đức, làm sao họ có thể vào được thế giới Phạm Thiên? Sau đó, Phật nói với Bà La Môn Vāseṭṭtha rằng, ngài biết lối vào thế giới Phạm Thiên và làm cách nào để đến được đó. Phương cách Phật nói là, giả sử có người tình cờ gặp Phật, nghe giáo pháp của ngài, từ bỏ đời sống thế gian, và thọ trì giới cấm. Về sau, người này xuất gia thành Sa Môn, quán từ, bi, hỷ, và xả (brahma-vihāra). Theo Phật, đây là lối vào thế giới Phạm Thiên. Phật cực lực bác bỏ quan điểm của Ba La Môn cho rằng, tế thần là thiện nghiệp đưa đến đời sống hạnh phúc trong tương lai. Phật nói ngược lại điều này trong Kinh Tăng Chi (tập II, phẩm 42)[17]. Theo đó, một vị Sa môn phạm hạnh, đầy đủ giới đức sẽ đi vào thế giới Phạm Thiên sau khi chết. Chết ở đây hàm ý là nhập Niết Bàn (Nirvāna) khi vị ấy chứng đắc quả vị A-ha-hán, không phải chết theo nghĩa đen thông thường[18]
 
Phật cũng bác bỏ quan điểm nghiệp của Kỳ Na giáo; nghiệp ở Kỳ Na giáo là vật chất hay bụi nghiệp; người ta không thể tránh khỏi nghiệp, vì nghiệp được tin là có mặt khắp mọi nơi và có kết quả xấu bất kể có chủ ý hay không.Phật định nghĩa nghiệp như sau: “Này các tỳ kheo, ta gọi điều cố ý (cetanālà nghiệp (cetanāhaṃ bhikkhave kammaṃ vadāmi), bởi chính sự cố ý chúng sanh tạo ra nghiệp qua thân, khẩu, và ý” (Kinh Tăng Chi, tập 3, phẩm 414)[19]. Có người định nghĩa sự cố ý bao gồm động cơ để làm một hành động nào đó, mục đích tức thời của nó (nhằm đến một đối tượng cụ thể như là một phần để thoả mãn động cơ), tâm bị thôi thúc phải hành động ngay[20]. Để hành động phát sinh ra nghiệp quả, phải có sự cố ý. Do đó, giẫm đạp kiếng một cách vô tình lúc đi đứng không tạo ra nghiệp quả như quan điểm của Kỳ Na giáo [21].   
 
Thuyết nghiệp của Phật giáo cũng bác bỏ thuyết định mệnh về nghiệp của Bà La Môn và Kỳ Na giáo. Phật nhấn mạnh rằng thuyết định mệnh (niyati) và nghiệp hoàn toàn khác nhau. Quan điểm về nghiệp nhấn mạnh hành động của con người có tầm rất quan trọng cùng kết quả của nó: tác nhân phải chịu trách nhiệm về hành động họ tạo ra. Phật dạy con người có quyền tự do lựa chọn; hành động hiện tại của họ không phải là kết quả của những hành động trong đời trước; không phải mọi thứ xảy đến với con người đều được xem là do nghiệp. Những cảm giác không như ý hay bệnh tật mà chúng ta trải nghiệm có thể phát sinh từ nhiều nguyên nhân: (1) từ mật, (2) đờm giải, (3) gió, (4) từ sự thiếu cân bằng của ba tính chất này, (5) từ sự thay đổi thời tiết, (6) từ những hành vi bất cẩn, (7) đến đột ngột (bởi hành động của người khác), (8) từ kết quả của nghiệp (Kinh Tương Ưng, chương 36, phẩm 21)[22]. Lời Phật dạy cho chúng ta biết rằng một kết quả nào đó xảy đến có tám nguyên nhân; và chỉ một trong tám nguyên nhân là do nghiệp. 
 
Phật cũng chế định giáo lý về nghiệp dựa trên tính chất nhân quả; theo đó, Phật bác bỏ học thuyết tiền định của Kỳ Na giáo, rằng một hành động chắc chắn sẽ tạo ra một kết quả. Kết quả của hành động hoàn toàn không cùng tính chất như chính hành động. Điều Phật nhấn mạnh là, phụ thuộc vào bản chất của hành động và điều kiện mà hành động được tạo ra, thì sẽ có kết quả hợp lý. Ngài nói trong Kinh Tăng Chi rằng: “Nếu như một người gây ra một hành động, thực sự chịu cái quả của hành động ấy, thì không có cơ hội để phát triển đời sống tâm linh, không có lối thoát khỏi ác nghiệp ở đời trước (Kinh Tăng Chi, tập 1, phẩm 248-52)[23].       
 
Phật giải thích rằng, đối với một người không tu tập giới, tâm, và tuệ, một điều ác nhỏ có thể dẫn dắt họ bị đọa lạc dưới địa ngục, như bỏ nắm muối vào ly nước, ly nước sẽ quá mặn, và không thể uống được. Đối với người tu tập giới, tâm, và tuệ, một hành động tương tự như vậy chỉ khiến họ thọ cái quả nhẹ hơn rất nhiều ngay trong đời này; và trong trường hợp nếu phải chịu quả báo ở đời tương lai, thì chỉ như bỏ nắm muối vào sông hằng; nước sông hằng không phải vì nắm muối mà mặn đến nỗi không thể uống được. Như vậy, hai tác nhân cùng thực hiện một hành động nhưng thọ quả bảo khác nhau. Điều này hàm ý rằng, nơi người có tu tập và có phẩm hạnh, một sơ suất nhỏ sẽ không để lại quả báo nguy hại lên họ, vì giới đức sẽ làm bão hòa cái quả báo nhỏ ấy. Người không có giới đức phải thọ nhận quả báo xấu hơn.     
 
Phật cũng dạy thuyết nghiệp liên hệ với tái sanh. Tiểu Kinh Nghiệp Phân Biệt (Cūlakammavibhaṅga Sutta) chép rằng thanh niên Bà la môn đến gặp Phật và thỉnh ngài giải thích tại sao giữa loài với nhau, có người đoản thọ, có người trường thọ; có người xấu tướng, có người hảo tướng; có người quyền thế nhỏ, có người quyền thế lớn, có người có tài sản nhỏ, có người có tài sản lớn; có người sinh trong gia đình lạ liệt, có người sinh trong gia đình cao quý? Phật trả lời như sau: “các loài hữu tình là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp. Nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa, nghiệp phân chia các loài hữu tình; nghĩa là có liệt, có ưu[24]. Lời Phật dạy ở đây phảng phất trách nhiệm đạo đức. Chân lý chung của vũ trụ là, hành vi đạo đức, nhân ái sẽ trổ quả báo tốt đẹp trong thời gian dài; hành vi phi đạo đức, không nhân ái sẽ trổ quả báo khổ đau. Bản chất của thiện nghiệp làm tăng ích hạnh phúc tinh thần và vật chất cho loài người; nó phù hợp với nguyên lý chung, rằng không ai có thể có hạnh phúc trên sự đau khổ của người khác.  
 
Lời Kết
 
Nghiệp (Karma) được nói đến sớm nhất ở trong Rg Veda của Bà La Môn giáo; nghiệp đó là một loại lễ tế thần. Để đạt kết quả như ý, người thực hiện phải tuân theo từng bước trong tiến trình tế lễ. Thực hiện sai một bước đã tạo ra kết quả xấu. Sau khi chết, người ta được tin là về với tổ tiên và sống ở trên trời, hoặc tái sanh làm người trong thế giới này. Giai đoạn phát triển về sau của Ba La Môn được biết dưới tên Upanisads, thuyết nghiệp được nói có liên hệ đến tái sanh. Người chết có hai con đường để đi: đường về với thượng đế (devayāna) và đường về với tổ tiên (pitriyāna). Nghiệp trong Bà La Môn không dính dáng gì giá trị đạo đức.      
Kỳ Na giáo tuyên bố rằng mọi hành động vật lý đều mang lại kết quả bất kể có chủ ý hay không. Đó là bởi vì Kỳ Na giáo định nghĩa nghiệp là những hạt bụi cực tiểu bám vào linh hồn (jīva). Thêm nữa, linh hồn có đặc tính tiêu cực, vì thế nó sẽ sinh ra những ý nghĩ, lời nói, và hành động xấu ác như một phần từ sự kết hợp của linh hồn với bụi nghiệp. Giẫm kiến đang lúc đi trong trạng thái không có chủ ý cũng tạo ra kết quả xấu. Như Bà La Môn giáo, Kỳ Na giáo phát biểu nghiệp là quy luật bất di bất dịch và là thuyết tiền định. Thuyết tiền định trong Bà La Môn giáo là bởi vì cái Ngã vĩnh hằng, bất biến (Ātman), trong khi thuyết tiền định trong Kỳ Na giáo là bởi vì không có khả năng kiểm soát những hậu quả xấu ác. Bất kể tác nhân nói, nghĩ, hay làm điều gì, đều làm mồi cho bụi nghiệp. Cách duy nhất để tránh nghiệp là ngưng hoạt động và thọ trì 12 giới của Kỳ Na giáo; bằng cách đưa ra 12 giới, Kỳ Na giáo có lẽ là tôn giáo đầu tiên đạo đức hóa thuyết nghiệp.
 
Quan điểm của Phật về nghiệp khác hẳn quan điểm của Bà La Môn và Kỳ Na giáo. Ngược hẳn với Bà La Môn, Phật dạy rằng, nghiệp là trách nhiệm đạo đức của mỗi cá nhân, và là tiêu chí để đánh giá, xếp loại con người, chứ không phải tế lễ thần linh. Liên hệ đến Kỳ Na giáo, Phật định nghĩa lại về nghiệp: nghiệp là sự chủ ý, không phải là hoạt động vật chất đơn thuần. Phật giáo và Kỳ Na giáo gặp nhau ở điểm: cả hai đều đạo đức hóa thuyết nghiêp và cổ xúy tinh thần bất bạo động. Khác nhau không đáng kể là, Phật bác bỏ thuyết tiền định về nghiệp.


[1] Sinha, Jadunath (1956). A History of Indian Philosophy, vol. I. Calcutta: Sinha Publishing House, trang 1.
[2] Dasgupta, S (1963). History of Indian Philosophy, vol. I. London: Cambridge University Press, trang 22.
[3] Kalupahana (1976). Buddhist Philosophy: A Historical Analysis. Honolulu: The University Press of Hawaii, trang 76.
[4] Jaini, Padmanabh S (2001). The Jaina Path of Purification. Delhi: Motilal Banarsidass Publishers Privae Limited, trang 102-3.
[5] Jaini, Padmanabh S (2001). Sđd, trang 115-23. 
[6] Jaini, Padmanabh S (2001). Sđd, trang 124-30.
[7] Gombrich, Richard (2006). How Buddhism Began. London and New York: Routlege, Taylor & Francis Group, trang 51.
[9]Nanamoli, Bhikkhu and Bodhi (1995) (dich). Majjhima Nikaya (The Middle Length Discourses of the Buddha). Sri Landka: Buddhist Publication Society, trang 477-92.
[10] Bronkhorst, J (1993). The Two Traditions of Meditation in Ancient India. Delhi: Motilal Banarsidass, trang 3.
[11] (1) Quy y Jina (ṇamo arahaṃtāṇaṃ), (2) siddha, những người đã đạt giải thoát, mokṣa (ṇamo siddhāṇaṃ), (3) những nhà giáo sỹ đứng đầu của Kỳ Na giáo (ṇamo ācāryaṇaṃ), (4) những nhà truyền giới (ṇamo upādhyāyaṇaṃ), and (5) nhà tu khổ hạnh (ṇamo loe savva-sādhuṇaṃ). (Jaini, Padmanabh S (2001).The Jaina Path of Purification, trang 162-3).  
[12] Tránh ăn thịt, uống chất say nồng, mật, và năm loại trái cây.(Jaini, Padmanabh S (2001). Sđd, trang 187).            
[13] Jaini, Padmanabh S (2001). The Jaina Path of Purification. Delhi: Motilal Banarsidass Publishers Privae Limited, trang 169-73.
[14] Jaini, Padmanabh S (2001). Sđd, trang 173-8.
[15] Jaini, Padmanabh S (2001). Sđd, trang, 178-85.
[16] Walshe, Maurice (1995). Digha Nikaya (The Long Discourses of the Buddha). Boston: Wisdom Publication,trang 187-95.
[17] M.A, F.L. Woodward. (1973) (The Book of The Gradual Sayings (Anguttara-Nikāya) Vol II. London and Boston: Pali Text Society, trang 49-51.
[18] Gombrich, Richard (2006). How Buddhism Began. London and New York: Routlege, Taylor & Francis Group, trang 61.
[19] Hare, E. M (1973). The Book of Gradual Sayings (Anguttara-Nikāya). London and Boston: Pali Text Society, trang 294.
[20] Keown, Damien. (1992). Nature of Buddhist Ethic. London: Macmillan, trang 213-8.
[21] Harvey, Peter (2000). An Introduction to Buddhist Ethics. New York: Cambridge University Press, trang 17.
[22]Bodhi, Bhikkhu (2000). The Connected Discourses of the Buddha (Saṃyutta Nikāya). Boston: Wisdom Pblications, trang 1278-9.
[23] M.A, F.L. Woodward (1973) (The Book of The Gradual Sayings (Anguttara-Nikāya), Vol I. London and Boston: Pali Text Society, trang 227-30
[24] Nanamoli, Bhikkhu and Bodhi (1995) (dịch). Majjhima Nikaya (The Middle Length Discourses of the Buddha). Sri Landka: Buddhist Publication Society, trang 1053-7.

Các tin đã đăng:
Về đầu trang