Kinh Pháp Hoa (phẩm Phổ Môn) đề cập đến 14 năng lực vô úy của Đức Bồ tát Quán Thế Âm:
1.Giúp chúng sinh thoát khỏi khổ não;
2.Giúp chúng sinh không bị lữa dữ thiêu đốt;
3.Giúp chúng sinh không bị nước lớn nhận chìm;
4.Giúp chúng sinh không bị ác quỷ làm hại;
5.Giúp chúng sinh thoát khỏi đao trượng;
6.Giúp chúng sinh không bị ác quỷ, ác thần trông thấy;
7.Giúp chúng sinh thoát khỏi gông cùm xiềng xích;
8.Giúp chúng sinh thoát khỏi giặc cướp;
9.Giúp chúng sinh dứt trừ tham dục;
10.Giúp chúng sinh xa lìa nóng giận;
11.Giúp chúng sinh đoạn trừ si ám;
12.Giúp chúng sinh cầu được con trai;
13.Giúp chúng sinh cầu được con gái;
14.Giúp chúng sinh niệm danh hiệu Quán Thế Âm thì được vô lượng lợi
ích. Nói chung là các chúng sinh nào gặp lúc nguy khốn, cấp nạn mà
thành tâm niệm danh hiệu Bồ tát thì sẽ được gia hộ khiến thân tâm an
ổn, không còn sợ hãi nữa. Nhờ hạnh nguyện cao cả này nên Bồ tát được
chúng sinh trong cõi Ta-bà tôn xưng là Thí Vô Úy Giả , “Bậc hiến tặng năng lực không sợ hãi”.
Hiến tặng là một nghĩa cử cao đẹp mà hàng đệ tử Phật luôn thực hiện
và trau giồi trong cuộc sống hàng ngày. Bước đầu là hiến tặng tài vật
(Tài thí), kế đến là hiến tặng giáo pháp (Pháp thí) và sau hết là hiến
tặng sự bình an, mang đến cho người niềm tự tin, không sợ hãi (Vô úy
thí).
Tuy vậy, việc hiến tặng tài vật và giáo pháp đúng nghĩa đã bao hàm ý
nghĩa hiến tặng sự bình an, không còn lo sợ. Không chỉ Đức Bồ tát Quán
Thế Âm mới là “Bậc hiến tặng năng lực không sợ hãi” mà hết thảy chúng
ta, nguyện học theo hạnh Ngài, cũng có thể sẻ chia và hiến tặng bình
an, không sợ hãi cho mình, những người thân và hết thảy chúng sinh.
Muốn hiến tặng, dĩ nhiên phải có cái để trao tặng. Như muốn hiến
tặng tài vật thì phải có của cải, bạc tiền; muốn hiến tặng giáo pháp
thì phải am hiểu và có kinh nghiệm thực hành Phật pháp; muốn hiến tặng
bình an, không sợ hãi thì ta phải có bình an, tự tin và không hề sợ
sệt. Đức Bồ tát Quán Thế Âm là vị Bồ tát của tình thương (Bi), yêu
thương chúng sinh như mẹ thương con nhưng đồng thời Ngài cũng là vị Bồ
tát của hiểu biết (Trí).
Tuệ giác sáng chói của Ngài là nhìn thấy năm uẩn đều Không (không tự
tính, Sunyata). Nhờ an trụ trong tuệ giác duyên khởi, không chấp thủ
nên Bồ tát vượt thoát mọi chướng ngại, không còn sợ hãi, xa lìa điên
đảo mộng tưởng, đạt cứu cánh Niết-bàn (Bát nhã Tâm kinh).
Rõ ràng Bồ tát không hề sợ hãi, bởi Ngài thấy tất cả đều Không. Còn
chúng ta luôn lo lắng và sợ sệt vì hầu như thấy tất cả đều có. Chính
cái thấy “luôn luôn có” hạn hẹp đó của chúng sinh là nguyên nhân của
mọi niềm bất an, sợ hãi.
Vì thế, để học theo hạnh vô úy, không sợ của Bồ tát, chúng ta cần mở
to đôi mắt trí tuệ để nhìn thật sâu sắc vào tự thân cũng như cuộc sống
để thấy như thật rằng “vạn sự vạn vật đều giả có, duyên sinh, như huyễn, rỗng không, không tự tính, Sunyata”.
Cái thấy của chúng ta càng tiệm cận với chân lý, sự thật bao nhiêu
thì chúng ta càng thảnh thơi, tự tại, bình an và vô úy bấy nhiêu. Khi
trong ta đã có năng lực tự tin, không sợ hãi, bất động trước mọi biến
động rồi thì ta mới có thể hiến tặng năng lực ấy cho người thân, và cho
hết thảy mọi người.
Những khổ đau của chúng sinh như lo lắng, sợ sệt và bất an về nhiều
phương diện trong cuộc sống xuất hiện gần như thường trực. Không phân
biệt tuổi tác, hoàn cảnh và thân phận, ai ai cũng đều mang niềm lo, nỗi
sợ. Sợ cái hữu hình cho đến vô hình, sợ đói nghèo và càng lo sợ hơn khi
đã được giàu có, sợ những gì đã xảy ra cho đến sắp xảy ra, sợ vô vàn
bất trắc xảy đến trong cuộc đời, sợ điều đáng sợ và cả điều không đáng
sợ v.v…
Cho đến người nhiều may mắn nhất luôn gặp những điều như ý trong đời
cũng nơm nớp lo sợ khi tuổi xế chiều, đối diện với cái chết. Lo lắng và
sợ hãi luôn đoanh vây, trùm phủ lên kiếp người.
Vì thế, Bồ tát luôn phân thân khắp mọi nơi, ngày đêm tận lực cứu độ nhằm giúp chúng sinh bình an, không còn sợ sệt.
Ai đã từng một phen hú vía vì khiếp đảm mới thấu hiểu nỗi khổ của sợ
hãi. Nên trước nỗi khổ lo sợ của chúng sinh, người con Phật không thể
làm ngơ mà phải tìm cách cứu độ, hiến tặng bình an. Không như hiến tặng
tài vật hay giáo pháp, hiến tặng sự không sợ hãi đôi khi không cần bất
cứ điều gì to tát, chỉ cần bạn có mặt.
Một đứa trẻ chợt khóc thét lên khi không thấy mẹ. Rồi mẹ nó xuất
hiện, chỉ cần thấy mẹ thôi là đứa bé hết khóc, không còn lo sợ nữa.
Hoặc đã quá giờ hẹn mà chưa thấy người cần gặp, lấy điện thoại ra bấm
số và không có tín hiệu trả lời, lòng thấy bồn chồn, lo sợ mơ hồ.
Đến khi người hẹn xuất hiện mới thở phào, nhẹ nhõm cả người. Hay lần
đầu tiên trong đời ta cất bước đi xa, đến một nơi hoàn toàn xa lạ dù
nơi ấy người ta chen chúc nhưng vẫn thấy man mác buồn, trống trải xen
lẫn âu lo.
Bấy giờ, ta cần lắm một ánh mắt thiện cảm, một nụ cười cảm thông.
Chỉ bấy nhiêu thôi cũng làm ta ấm lòng nơi đất khách quê người. Như
vậy, ta không cần làm gì nhiều cả, chỉ cần có mặt với tất cả sự vững
chải và thảnh thơi cũng đem lại bình an, bớt đi lo sợ cho rất nhiều
người.
Một nỗi lo sợ to lớn khác luôn ám ảnh đời người là sợ mất; mất người
thân, mất tiền của, mất danh tiếng, mất địa vị, mất niềm tin, mất sức
khỏe, mất nhan sắc, mất nhiều thứ, mất tất cả…
Không lo sợ sao được khi không bỗng chốc trắng tay (điều mà không ai
có thể lường trước được). Thế nhưng đây lại là một sự thật hiển nhiên,
khi sinh ra với hai bàn tay trắng rồi cuối cùng ra đi cũng trắng cả đôi
tay, mà không mấy ai bình tâm để nhận ra và chấp nhận. Xét cho cùng thì
ta đã được cái gì đích thực đâu mà lo sợ bị mất.
Được và mất nương tựa vào nhau mà giả lập nên như bao nhiêu cặp phạm
trù tương đãi có-không, đến-đi, sinh-diệt… Vì thấy được nên mới thấy
mất, còn chưa từng được thì có mất bao giờ.
Trong dòng luân chuyển vô cùng tận ấy, sự biến dịch, thay đổi, vô
thường mới chính là lẽ thường. Vậy thì vì sao phải lo sợ hão huyền về
lẽ thật vốn chưa từng được-mất? Tự chúng ta có thể chiêm nghiệm và ngộ
ra điều này hay Bồ tát hoặc những người khác cũng đều có thể soi sáng
cho chúng ta để quẳng gánh lo sợ đi mà vui sống.
Quan trọng hơn là ngay cả thân tâm này cũng giả huyễn, nói chi những
vật ngoài thân. Tấm thân năm uẩn này do duyên sinh thì đích thực là giả
có và hư huyễn rồi. Hiểu được đạo lý duyên sinh rồi thì tùy duyên tiếp
vật, sống hoan hỷ, an lạc và thảnh thơi, không hề lo sợ bất cứ đều gì.
Ở đây, hiến tặng năng lực không sợ hãi thông qua việc tự thân tiếp
nhận và phát huy tuệ giác, dẹp tan tăm tối của nghiệp chướng vô minh,
nhận ra lẽ thật của cuộc đời để sống bình an và thanh thản.
Đức Bồ tát Quán Thế Âm luôn vận dụng các phương tiện thiện xảo để
hiến tặng sự bình an cho hết thảy chúng sinh. Học theo hạnh Ngài, mỗi
chúng ta cũng tự trang bị cho chính mình tình yêu thương và tuệ giác
lớn để vui sống, không âu lo và giúp người luôn bình an, không sợ hãi.
Quảng Tánh
Theo: Tuần báo Giác Ngộ, số 560