Trước hết, chúng ta phải hiểu thế nào là lễ? Thế nào là lễ bái?
Lễ, theo Tự điển Tiếng Việt của viện ngôn ngữ học Việt Nam, là phép
tắc phải tuân theo khi thờ cúng tổ tiên, quỷ thần, hoặc giao tế trong xã
hội. Nói một cách rộng rãi dễ hiểu hơn, đây là những quy tắc nhất định
của cung cách, đi đứng, nói năng trong Quan, Hôn, Tang, Tế, nhằm thể
hiện sự cung kính và bao gồm cả những phép lịch sự chào hỏi nhau để biểu
lộ sự thân thiện quen biết. Nó còn là một phương tiện đặc biệt để gây
tình cảm. Người dưới gặp người trên mà không biết chào hỏi là thiếu lễ
độ. Người trên không biết đáp lại lời chào của người dưới, thường bị
mang tiếng là hách dịch, khinh người.
Bái là sự cung kính biểu
hiện ở thân tướng, nghĩa là quỳ lạy, bằng cách hạ mình xuống trước những
bậc Hiền đức mà mình tôn kính. Lễ bái tiếng Phạn là Vandana, Tàu dịch
âm là Ban-đàm, còn gọi là Hòa nam, hoặc gọi là Na-mô Tất-yết-la. Có
nghĩa là ý tôn kính biểu hiện ra ở thân tướng, là lễ nghi cung cách với
hình thức cúi đầu quỳ lạy trước những bậc tiền nhân, Thánh đức mà mình
đã đặt trọn niềm tin quy ngưỡng hướng về, như lạy chư Phật, chư Hiền
Thánh, như lạy tổ tiên, cha mẹ, thầy tổ v.v...
Lễ bái là một đạo
nghĩa nhằm tiêu biểu cho ý chí tôn kính, để tỏ lòng tri ân và báo ân ngõ
hầu trở thành những con người hữu ích trong xã hội, để làm tròn bổn
phận của con cháu tông môn và để xứng đáng là đệ tử các bậc Thánh đức.
Lễ bái còn là một phương pháp tu để diệt trừ lòng ngã mạn cống cao, diệt
trừ những phiền não, nghiệp chướng.
Lễ bái là một nghi thức tín
ngưỡng thường thấy ở một số tín ngưỡng tôn giáo phương Đông. Khởi
nguyên, lễ bái biểu thị sự phục tùng, tôn kính tuyệt đối với các uy lực
siêu nhiên, đấng thần linh mà con người tôn thờ. Dần dần, tùy theo sự
phát triển của mỗi tôn giáo mà có những ý nghĩa khác nhau trong cách
thức lễ bái. Ở đây, chúng tôi không thể so sánh hết tất cả các hình thái
nghi lễ mà chỉ giới hạn tìm hiểu cách thức lễ bái của Khổng giáo và
Phật giáo mà thôi.
Theo truyền thống Việt Nam, dân tộc ta phần
đông chịu ảnh hưởng sâu đậm văn hóa Khổng giáo và Phật giáo. Do đó, mỗi
người dân đều chịu ảnh hưởng không ít cách lễ bái của hai tôn giáo này.
Thời xưa vua chúa đã quy định rõ ràng, mỗi người dân khi lễ bái vua,
quan, hiền thần, đình miếu thì phải áp dụng theo cung cách của Khổng
giáo và khi lễ bái Phật trời, Hiền thánh, Tổ tiên, ông bà v.v… thì phải
áp dụng theo cung cách của Phật giáo.
Cách lạy của Khổng giáo,
trước hết con người phải đứng thẳng là tiêu biểu cho cái uy của kẻ sĩ.
Hai tay cung thủ là tiêu biểu cho cái dũng của Thánh nhân. Trước khi
lạy, hai tay cung thủ đưa lên trán, kế đưa sang phải, rồi đưa phía trái
là tiêu biểu cho Tam tài (Trời, Đất và Người). Khi lạy, hai tay cung thủ
chống lên đầu gối chân mặt và quỳ chân trái xuống trước là tiêu biểu
cho sự tôn kính mà không mất tư thế cái uy dũng của kẻ sĩ. Cúi đầu xuống
đất là tiêu biểu cho sự cung kính những bậc mà mình đảnh lễ. Đó là cung
cách và ý nghĩa tổng quát lễ bái theo quan niệm của Khổng giáo.
Lễ
bái theo quan niệm của Phật giáo có phần khác biệt về cung cách cũng
như về ý nghĩa so với Khổng giáo. Riêng về ý nghĩa và giá trị lễ bái
được rất nhiều kinh luận đề cập đến. Phật giáo quan niệm, vì sự sùng
kính ân đức vô lượng, trí tuệ vô biên của chư Phật mà hàng Phật tử đã
biểu lộ sự thành kính ấy qua hình thức lễ bái và noi theo gương sáng của
chư Phật, chư Hiền thánh để phát triển hạnh lành, tiến tu đạo nghiệp
đạt được trí tuệ giải thoát như các Ngài. Trong nhân quả của sự tôn kính
thì “kính thầy sẽ được làm thầy”.
Sự lễ bái cũng là phương pháp
tu để diệt trừ sự cống cao, ngã mạn – bản chất con người chúng ta lúc
nào cũng luôn tự cao tự đắc, vênh váo nghênh ngang, xem “cái tôi” của
mình là trung tâm vũ trụ. Đó là tánh xấu khiến mọi người chán, xa lánh
làm tiêu mòn công đức. Chúng ta ý thức được điều này, vì tự mình thấy
mình không sánh kịp các Ngài, biết mình thấp kém tài đức nên phải kính
lạy Phật, Bồ-tát và các bậc tôn túc để diệt trừ tâm ngã mạn thì tự nhiên
tánh ngạo mạn từ từ biến mất. Ngoài ra, lễ bái còn là pháp hành căn bản
mà người con Phật phải hành trì tinh tấn để giải thoát các nghiệp
chướng mà chúng ta đã gây tạo từ nhiều đời nhiều kiếp. Trong Phật giáo,
có nhiều cách lễ bái.
Theo sách Đại Đường Tây Vực Ký, quyển 2,
ghi rằng: Ấn Độ có chín cách lễ bái được gọi là “Tây Trúc cửu nghi”.
Chín cách lễ bái đó như sau:
1. Phát ngôn úy vấn lễ: Mở lời thưa hỏi.
2. Phủ thủ thi kính lễ: Cúi đầu biểu thị sự cung kính.
3. Cử thủ cao ấp lễ: Đưa tay cao vái chào.
4. Hiệp chưởng bình cung lễ: Chắp tay ngang vái chào.
5. Khuất tất lễ: cúi gập đầu gối.
6. Trường quy lễ: Quỳ nằm dài ra.
7. Thủ tất cứ địa lễ: Tay và gối quỳ sát.
8. Ngũ luân câu khuất lễ: Năm vóc co lại.
9. Ngũ thể đầu địa lễ: Năm vóc gieo xuống đất.
Trong kinh Pháp Hoa, chúng ta thấy có một đoạn miêu tả về những cách lễ trên:
“Hoặc có người lễ bái
Có người chỉ chấp tay
Cho đến giơ một tay
Có người lại cúi đầu
Để cúng dường tượng Phật
Sẽ thấy Phật vô lượng
Tự thành đạo Vô thượng”.
Ngoài
chín cách lạy trên đây, người Ấn Độ còn có nhiều cách lễ bái khác nhau,
tùy theo phong tục của mỗi nơi mà có sự khác biệt với nhau về cung cách
như: Lễ bái đứng một chân quỳ lạy (Tồn cử lễ); bước một bước lễ một lạy
(Khởi cư lễ); lễ một lạy rồi đi nhiễu ba vòng về phía bên hữu của Phật
hoặc bảo tháp (Hữu nhiễu tam thất lễ); lễ bằng cách ngồi cúi đầu lạy (Tạ
lễ). Riêng về Phật giáo Việt Nam, phần đông Phật tử đều áp dụng theo
phương pháp Ngũ thể đầu địa (năm vóc sát đất) trong khi lễ bái. Đây là
một phương pháp tiêu biểu cho tâm ý tôn kính cao đẹp nhất trong các cung
cách lễ bái. Khi lễ bái, đầu tiên Phật tử phải đứng ngay thẳng trước
tượng Phật cho trang nghiêm và khép hai chân vào nhau để lấy lại sự an
tâm thanh tịnh, đồng thời kiểm thúc tâm ý không để chao động vọng tưởng.
Ngay lúc đó, đôi mắt nhìn lên tượng Phật, quán tưởng các tướng tốt và
quán niệm những đức hạnh cao quý của đức Phật, bày tỏ nguyện vọng chân
chính của mình hầu mong Phật chứng minh. Hai tay chắp lại là biểu thị
thân tâm hiệp nhất để nói lên sự nhất tâm cung kính của mình và để hai
tay trước ngực là tiêu biểu ý nghĩa Ấn tâm. Chắp tay đưa lên giữa chặng
mày (cử án tề mi) thể hiện sự cung kính và tiêu biểu cho ý nghĩa tâm
nguyện của mình được dung thông đến chư Phật, rồi xướng câu: “Năng lễ sở
lễ tánh không tịch, cảm ứng đạo giao nan từ nghì, ngã thử đạo tràng như
đế châu, thập phương chư Phật ảnh hiện trung...” và lạy theo nguyên tắc
Ngũ thể đầu địa - “Đầu diện tiếp túc quy mạng lễ”. Ngửa lòng bàn tay ra
giống như đóa hoa sen nở, ta tưởng tượng như đức Phật đang đứng trên
đóa sen kết thành bởi hai bàn tay và ta đặt trán mình lên lòng bàn chân
của đức Phật, đồng thời nằm mọp xuống để biểu thị sự cung kính tâm thành
quy ngưỡng, nương tựa.
Phật giáo cho rằng, người Phật tử ngoài
sự lễ bái chư Phật, chư Bồ-tát, chư Hiền Thánh Tăng ra còn phải tưởng
niệm ân đức cao dày của các Ngài và phát nguyện suốt đời hướng về các
Ngài để tiến tu đạo nghiệp, nên được gọi là quy mạng lễ.
Trong kinh Tăng Nhất A Hàm, đức Phật dạy:
“Thiện Nghiệp đã lễ trước
Đầu tiên không lỗi lầm
Cửa giải thoát trống không
Đây là nghĩa lễ Phật
Nếu người muốn lễ Phật
Vị lai và quá khứ
Nên quán pháp trống
không
Đây là nghĩa lễ Phật.”
Nhân
thừa Phật giáo chia lễ bái ra làm 7 cách lạy. Bảy cách lạy này do ngài
Tam tạng Pháp sư Lặc Na phân chia ra, trong sách Pháp Uyển Châu Lâm có
nói rõ về nguyên nhân và hoàn cảnh vì sao phải chia ra 7 cách lạy này:
1.
Ngã mạn lễ: Nghĩa là lạy với tâm ngã mạn, tâm kiêu căng. Người lạy Phật
hoặc lạy ông bà, tổ tiên vì hoàn cảnh bắt buộc phải hành lễ, nhưng thâm
tâm của họ không muốn lạy, do đó họ lạy với cử chỉ ngạo nghễ, thái độ
kiêu căng, không chút nào lễ độ cung kính cả. Hoặc có người cậy thế ỷ
quyền cao chức trọng, thẹn khi chào hỏi người kém hơn mình, tâm không
dựa vào phép tắc lễ nghi. Tuy có lễ bái nhưng tâm chạy theo ngoại cảnh.
Đầu họ lạy không sát đất và họ đứng lên cẩu thả cho qua chuyện. Họ sợ
mất thể diện với bạn bè và sợ dơ bẩn quần, nên buộc lòng phải lễ bái
theo kiểu Ngã mạn để bạn bè khỏi chê trách mình là kẻ bất hiếu, bất
nghĩa, bất trung, bất tín. Cách lạy đó gọi là Ngã mạn lễ.
2. Cầu
danh lễ: Nghĩa là lạy xướng họa cầu danh. Những người lạy vì mong cầu
danh vọng, quyền tước qua sự chú ý và ngợi khen của cấp trên, cũng như
lấy lòng quần chúng để được ủng hộ; khi có cấp trên cũng như có đông
người thì họ siêng năng lễ lạy để cho mọi người khen mình là người siêng
năng có đạo đức. Thật ra thâm tâm của họ không có chút gì tín thành cả;
oai nghi thô vụn, thân tâm cung kính dối trá. Thấy người thì thân nhẹ
lạy mau, người đi thì thân tâm mệt mỏi, biếng nhác giải đãi trong việc
lễ lạy. Cách lạy này gọi là Cầu danh lễ.
(Hai cách lạy vừa trình
bày trên là hành động dối trá, không thể có nơi người đạo đức chân
chánh. Sở dĩ Pháp sư Lặc Na nêu ra là nhằm mục đích ngăn ngừa chúng ta).
3.
Thân tâm cung kính lễ: Nghĩa là người lễ lạy phải thể hiện thân và tâm
đều cung kính. Do thân tâm cung kính không nghĩ đến việc khác, kính cẩn
cúng dường tình không chán đủ. Lễ lạy bằng sự tha thiết chí thành cả
thân và tâm vì họ có đức tin trong sự lễ lạy nên sự cảm ứng của họ rất
dễ dàng giao cảm với chư Phật, với Thánh hiền, với ông bà Tổ tiên. Thân
tâm cung kính là cách lạy cơ bản trong Phật giáo về mặt sự tướng, hay
nói cách khác về mặt hình thức mà người xuất gia và tại gia phải hành
trì nghiêm túc.
Thân tâm cung kính lễ, công đức tuy lớn nhưng
thật sự chưa phải là mục đích cứu cánh trong lễ bái. Thân tâm cung kính
lễ chỉ là phương tiện nhờ đó mà hành giả tiếp tục tiến đến lãnh vực
Thánh giáo lễ của các bậc Thánh chúng về mặt lý tánh không cảm thấy trở
ngại.
4. Phát trí thanh tịnh lễ: Lạy phát trí thanh tịnh, nghĩa
là hành giả tu tập thiền quán cho đến khi trí tuệ thanh tịnh phát sanh
từ nơi chơn tâm là Thánh trí, chứ không phải trí tuệ phát sanh từ thức
tâm. Trí tuệ phát sanh từ thức tâm thuộc về nơi mà phàm trí còn bị giới
hạn bởi căn và trần. Trái lại, Thánh trí đã thoát ra vòng cương tỏa của
cả hai. Trong phép lạy này, hành giả phải thấu suốt rằng: cảnh giới của
chư Phật đều hiện bày từ nơi chân tâm và trí tuệ thanh tịnh của mình
cũng phát sanh từ bản tâm thanh tịnh. Cho nên người lễ bái một đức Phật
tức là lạy tất cả chư Phật trong mười phương không ngăn ngại. Lạy một
lạy tức là lạy tất cả pháp giới, vì Pháp thân của Phật dung thông.
5.
Biến nhập pháp giới lễ: Lạy khắp vào pháp giới. Nghĩa là trong phép lạy
này, hành giả phải tận dụng trí tuệ tự quán thân, tâm cùng tất cả pháp
giới, từ hồi nào đến giờ không rời pháp giới. Pháp giới tánh tức là thể
tánh của vạn pháp biến mãn khắp thế giới và thường trụ bất diệt. Pháp
giới tánh là nơi chư Phật thường an trụ để hiện thân hóa độ chúng sanh.
Hành giả thực hiện phép lạy này là quán chiếu thân và tâm nơi chính mình
biến nhập vào pháp giới tánh của vạn pháp một cách dung thông, giống
như bác sĩ sử dụng quang tuyến X (X-ray) rất lớn chiếu vào thân thể con
người và năng lượng quang tuyến X thấu suốt xuyên qua thân thể người
không chút ngăn ngại. Đó mới là lạy theo phương pháp Biến nhập pháp giới
lễ.
6. Chánh quán lễ: Lạy chánh quán nghĩa là quán chiếu Phật tự
tâm của chính mình không duyên cảnh khác. Trong phép quán này, hành giả
lễ lạy đức Phật ngay nơi tự tâm của mình, chứ không duyên đức Phật nào
khác, vì tất cả chúng sanh từ xưa đến nay, đều sẵn có Phật tánh viên
mãn, bình đẳng, chân giác.
7. Thật tướng bình đẳng lễ: Lạy thật
tướng bình đẳng nghĩa là trong phép lễ này, hành giả dùng trí tuệ quán
chiếu thật tướng của vạn pháp đều thể hiện một cách bình đẳng, không sai
biệt. Không có nhân ngã bỉ thử, tức là người lễ bái không thấy mình lạy
và người để cho mình lạy. Nói một cách khác, người thực hành phép lễ
này là dùng trí tuệ quán chiếu thật tướng vạn pháp để nhận thấy rằng:
mình và người, thể và dụng, phàm và thánh thảy đều vắng lặng không hai
(đều nhất như). Bồ-tát Văn Thù dạy rằng: “Năng lễ sở lễ tánh không
tịch”, nghĩa là thể tánh của mình đang lạy và thể tánh của người để mình
lạy thảy đều vắng lặng và bình đẳng.
(Bốn cách lạy: Phát trí thanh
tịnh, Biến nhập pháp giới, Chánh quán và Thật tướng bình đẳng là những
pháp môn thuộc về lý lễ bái của các bậc Đại thừa Bồ-tát thường tu tập để
thể nhập vào pháp giới tánh của chư Phật).
Qua những phương cách
lễ bái trên đây, chúng ta thấy Thân tâm cung kính lễ chính là pháp môn
quan trọng, là điều kiện tất yếu của người hiếu nghĩa, tín tâm để tỏ bày
lòng tri ân và báo ân. Thân tâm cung kính lễ là phương tiện cần thiết
để làm gạch nối giữa chư Phật và tâm linh con người qua sự nguyện cầu
gia hộ. Phương pháp lễ lạy này lại còn là nền tảng căn bản của chúng ta
trên con đường tiến tu đạo nghiệp để được chứng ngộ qua bốn cách lễ của
Thánh giáo. Vậy chúng ta nên cố gắng thực hành cho đúng pháp.
Ngoài
ra, chúng ta có thể tham khảo pháp thực tập ba cách lạy trong sách
Thiền Môn Nhật Tụng năm 2000, do Đạo Tràng Mai Thôn biên tập. Chúng tôi
xin phép lược trích về ba cách lạy trong sách ấy.
Lạy thứ nhất:
Năm vóc sát đất, con tiếp xúc với Tổ tiên và con cháu của con trong hai
dòng tâm linh và huyết thống. (chuông, lạy xuống) Con có Tổ tiên tâm
linh của con là Bụt, các vị Bồ-tát và các vị Tổ sư qua các thời đại,
trong đó có các bậc sư trưởng của con đã qua đời hay còn tại thế. Các vị
đang có mặt trong con, các vị đã truyền trao cho con những hạt giống
bình an, trí tuệ, tình thương và hạnh phúc nhờ liệt vị mà con có được
một ít vốn liếng của an lạc, tuệ giác và từ bi... Tổ tiên tâm linh và Tổ
tiên huyết thống của con cũng như con cháu tâm linh và huyết thống của
con, đều đang có mặt trong con. Con là họ, họ là con, con không có một
cái ta riêng biệt; tất cả đều có mặt trong một dòng sinh mệnh đang diễn
biến mầu nhiệm.
Lạy thứ hai: Năm vóc sát đất, con tiếp xúc với
mọi người và mọi người đang có mặt với con giờ này trong sự sống.
(chuông, lạy xuống) Con thấy con là sự sống mầu nhiệm đang dàn trải
trong không gian. Con thấy con liên hệ mật thiết tới mọi người và mọi
loài; tất cả những hạnh phúc và khổ đau của mọi người và mọi loài là
những hạnh phúc và khổ đau của chính con... Con thấy con trong tất cả
các vị và tất cả các vị trong con.
Lạy thứ ba: Con buông bỏ hình
hài và thọ mạng. (chuông, lạy xuống) Con thấy được thân tứ đại này không
đích thực là con, con không bị giới hạn trong hình hài này. Con là tất
cả dòng sinh mạng tâm linh và huyết thống từ ngàn xưa liên tục diễn biến
tới ngàn sau...
Ở trên, chúng ta đã tìm hiểu sơ qua ý nghĩa của sự lễ bái, còn tác dụng và lợi ích của lễ lạy thì thế nào?
Tác
dụng và lợi ích của sự lễ lạy xét về phương diện y học: Khi khấu đầu
làm lễ, toàn bộ các chi trong cơ thể đều vận động, lại thêm vào sự
chuyên chú về tinh thần tình cảm, động tác khoan thai, không những có
thể giải tỏa sự căng thẳng tinh thần mà còn có thể làm cho gân cốt thả
lỏng, máu huyết lưu thông. Trong khi làm lễ, tâm ý chân thành, ý thức và
động tác đều theo chỉ dẫn của tâm linh, tất cả những cái đó đều có lợi
cho sức khỏe và có tác dụng phòng trừ tật bệnh.
Tác dụng và lợi
ích của sự lễ bái trong kinh điển: đức Phật đã chỉ giáo rất rõ ràng.
Kinh Tăng Nhất A Hàm, quyển 24 có ghi: Cung kính lễ Phật sẽ được 5 phần
công đức:
1. Đoan chánh: Nghĩa là người lễ bái, thường chiêm
ngưỡng dung nhan và tướng hảo của đức Phật liền khởi niệm hoan hỉ và
phát tâm mơ ước mong cầu. Nhờ nhân duyên đó, họ qua kiếp sau có thể
hưởng được tướng mạo đoan trang tốt đẹp (Ngũ trược chúng sanh linh ly
cấu, đồng chứng Như Lai tịnh Pháp thân).
2. Hảo thinh: Nghĩa là
người lễ bái xưng tụng hồng danh của chư Phật. Nhờ nhân duyên đó đời sau
họ sẽ được tiếng nói lảnh lót trong trẻo tốt đẹp (Niệm Phật nhứt thanh,
phước tăng vô lượng. Lễ Phật nhứt bái tội diệt hà sa).
3. Đa tài
bảo: Nghĩa là người lễ bái thường dâng hoa, đốt đèn v.v... để cúng
dường các đức Như Lai. Nhờ nhân duyên đó đời sau hưởng nhiều tiền của
vật báu.
4. Sanh Trưởng giả gia: Người lễ bái đem tâm không chấp
trước, chắp tay, quỳ gối, chí thành lễ Phật. Nhờ nhân duyên đó, đời sau
họ được sanh vào nhà giàu sang, quý tộc.
5. Sanh Thiện xứ thiên
thượng: Nghĩa là nhờ công đức lễ bái các đức Như Lai, người lễ bái sẽ
được sanh vào các cõi lành, hoặc các cõi Trời.
Tóm lại, lễ bái
không phải là hành động thấp hèn làm mất phẩm cách con người, gợi lên
dấu ấn phong kiến. Trái lại, lễ bái chính là một đạo nghĩa, một nghĩa cử
rất cao đẹp của những người sống có văn hóa. Đối với tổ tiên, người
hiếu hạnh cần phải lễ bái để tỏ lòng cung kính. Đối với Thánh hiền, tín
đồ chân chánh cần phải lễ bái để thể hiện đức tính khiêm cung trong tu
tập đạo lý Giác ngộ. Lễ bái nhằm giao cảm với bề trên và tạo nên chất
liệu để xóa bỏ mọi dị biệt ngăn cách chia rẽ trong đoàn thể. Lễ bái tạo
ra sự lễ phép và thân thiện không chia rẽ nhằm thêm bạn bớt thù tạo ra
một xã hội thanh bình an lạc.
Trong xu thế hướng về cội nguồn
văn hóa dân tộc, chúng ta nên phát huy truyền thống lễ bái vì đây là
những thuần phong mỹ tục. Lễ bái là tinh hoa, là nét đẹp trong đời sống
sinh hoạt văn hóa tâm linh. Khi xa quê, khi tuổi cao tác lớn, khi có
người thân qua đời chừng ấy chúng ta sẽ thấy việc lễ bái với những động
tác quỳ xuống, đứng thẳng lưng, rồi quỳ xuống là cần thiết biết dường
nào! Nó thay cho những lời nói, những lời phát biểu, những cảm tưởng
dông dài, đây gọi là tấm lòng thành của mình.
Lễ bái có ý nghĩa
là báo ơn, tạ ơn với cung cách quy ngưỡng hướng về, cũng như noi gương
đức hạnh cao quý và ý chí siêu thoát của các bậc tôn kính để tu tập.
Người lễ bái mong cầu sau này kế thừa xứng đáng sự nghiệp của tiền nhân
trên con đường giác ngộ khổ đau sanh tử. Lễ bái là một nét đẹp văn hóa
có ý nghĩa giáo dục sâu sắc, cho nên trong mỗi người Phật tử không thể
thiếu nghĩa vụ với nghi cách lễ bái cao đẹp này.❑
Nguồn Tập San Pháp Luân 20