nhưng nếu chưa
quyết định mà nghe được danh hiệu Đức Dược Sư Lưu Luy Quang Như Lai, khi
mạng chung sẽ có tám vị Đại Bồ tát như Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, Quán
Thế Âm Bồ tát, Đắc Đại Thế Bồ tát, Vô Tận Ý Bồ tát, Bảo Đàn Hoa Bồ tát,
Dược Vương Bồ tát, Dược Thượng Bồ tát, Di Lặc Bồ tát từ trên không
trung đi đến đưa đường chỉ lối cho, thì được vãng sanh..."
Dưới đây là hình ảnh 8 vị đại Bồ tát như trong Kinh Dược Sư đã nói. Ban Biên Tập kính giới thiệu đến quí độc giả:
Nam Mô Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát
1. Văn Thù Sư Lợi Bồ tát:
tiếng Phạm là Manjusri, dịch âm là Văn Thù Thi Lợi, Mạn Thù Thất Lợi,
Mãn Tổ Thất Lý, nghĩa là Diệu Thích, Diệu Cát Tường, Diệu Lạc, Pháp
Vương Tử…Là 1 trong Tứ Đại Bồ tát của Phật Giáo, có liên hệ mật thiết
với kinh điển Bát Nhã (trí tuệ). Vị Bồ tát này thành Phật đã lâu, nhiều
kiếp lâu xa trong quá khứ đã gieo trồng hạt giống Phật, đã thành Vô
Thượng Chánh Đẳng Giác ở thế giới Bình Đẳng phương Nam, hiệu là Long
Chủng Thượng Như Lai, có tuổi thọ bốn trăm bốn mươi vạn tuổi, Đức Phật
đó nay gọi là Văn Thù Sư Lợi Pháp Vương Tử.
Theo hệ thống kinh điển Đại Thừa Phật
Giáo như kinh Thủ Lăng Nghiêm Tam Muội, kinh Duy Ma Cật, kinh Bảo Tích
Tam Muội Văn Thù Sư Lợi Vấn Pháp Thân, kinh Pháp Hoa… đều lấy Văn Thù Bồ
tát làm thượng thủ, cho Văn Thù Bồ tát là mẹ sinh ra chư Phật, Bồ tát
(vì Phât Giáo lấy trí tuệ làm căn bản). Văn Thù Bồ tát và Phổ Hiền Bồ
tát là 2 vị Bồ tát đứng hầu Đức Phật Thích Ca, thế gian thường gọi là
Hoa Nghiêm Tam Thánh, biểu thị cho trí huệ của Phật. Ngài thường ngồi
trên Sư tử tượng trưng cho oai thế dũng mãnh của chư Phật, Bồ tát. Tiếng
rống của sư tử biểu thị sự vô úy, có công năng trấn tỉnh những chúng
sanh trầm luân mê muội, tay cầm kim cang bảo kiếm biểu thị đoạn trừ
phiền não của chúng sanh.
Nam Mô Quán Thế Âm Bồ Tát
2. Quán Thế Âm Bồ tát:
tiếng Phạm gọi là avalokite’svara, dịch âm là A Bạc Chỉ Để Thấp Phạt
La. Bổn nguyện của Quán Thế Âm Bồ tát là lấy Từ Bi để cứu giúp chúng
sanh. Còn gọi là Quang Thế Âm Bồ tát, Quán Thế Âm Bồ tát, Quán Tự Tại Bồ
tát, Hiện Âm Thanh Bồ tát… gọi tắt là Quán Âm Bồ tát, hay còn có tên
gọi khác là Cứu Thế Bồ tát, Cứu Thế Tịnh Thánh, Thí Vô Úy, Đại Bi Thánh
Giả, Liên Hoa Thủ Bồ tát, Viên Thông Đại Sĩ… Quán Thế Âm Bồ tát đã sớm
thành Phật trong quá khứ hiệu là Chánh Pháp Minh Như Lai.
Quán Thế Âm Bồ tát cùng Đại Thế Chí Bồ
tát là 2 vị bồ tát đứng hầu Đức Phật Di Đà ở thế giới Tây Phương Cực
Lạc, thế gian thường gọi là Tây Phương Tam Thánh. Quán Thế Âm Bồ tát
cũng là 1 trong Bát Đại Bồ tát xuất hiện trong kinh Dược Sư, nếu ai nghe
được danh hiệu của Đức Phật Dược Sư, khi lâm chung sẽ được các vị Bồ
tát tiếp dẫn về cõi Tịnh Độ của Đức Phật A Di Đà. Hễ có chúng sanh nào
gặp các khổ nạn, nếu nhớ niệm danh hiệu của Bồ tát, thì Bồ tát liền nghe
tiếng mà đến cứu giúp được giải thoát, cho nên gọi là Quán Thế Âm Bồ
tát. Qua đó có thể thấy được pháp môn và từ bi nguyện lực của Ngài rất
quảng đại hoằng thâm. Vì Ngài đối với các cảnh giới đã thông đạt lý sự
viên dung nên còn gọi là Quán Tự Tại Bồ tát.
Phẩm Phổ Môn trong kinh Pháp Hoa thuyết
rằng: Bồ tát vì lợi ích chúng sanh trong cõi Ta Bà thế giới, nếu chúng
sanh thọ khổ mà nhứt tâm xưng danh hiệu Ngài thì lập tức Quán Thế Âm Bồ
tát theo tiếng kêu mà đến cứu thoát, nếu có mong cầu việc gì thì cũng
được như vậy. Để nhiếp hóa chúng sanh, Ngài còn có thể thị hiện thân
Phật, Tỳ Kheo, Ưu bà tắc, Dạ xoa…cho đến 33 thân. Hình tượng nổi tiếng
phổ biến nhất của Quán Thế Âm Bồ tát là hiện thân người nữ, tay cầm tịnh
bình dương liễu dùng cam lộ rưới nhuận xoa dịu khổ đau của chúng sanh.
Nam Mô Đại Thế Chí Bồ Tát
3. Đại Thế Chí Bồ tát:
tiếng Phạm là Maha-sthama-prapta, nghĩa là Đắc Đại Thế, Đại Thế Chí,
Đại Tinh Tấn. Gọi tắt là Thế Chí Bồ tát. Thế Chí Bồ tát cùng Quán Âm Bồ
tát đứng hầu 2 bên Đức Phật Di Đà mà người đời thường gọi là Tây Phương
Tam Thánh. Quán Âm Bồ tát đại biểu cho Từ Bi, Đại Thế Chí Bồ tát tượng
trưng cho Trí Huệ. Kinh Vô Lượng Thọ thuyết rằng: Bồ tát dùng ánh sáng
trí huệ chiếu khắp tất cả, khiến chúng sanh xa lìa 3 đường ác, được sức
mạnh Vô Thượng, khi Bồ tát đến đâu thì 10 phương thế giới đều chấn động,
nên gọi là Đại Thế Chí.
Đại Thế Chí Bồ tát cũng là 1 trong 8 vị
Bồ tát được kể trong kinh Dược Sư, tiếp dẫn chúng sanh về thế giới Tây
Phương Cực Lạc. Đại Thế Chí Bồ tát dùng tâm niệm Phật thành tựu chứng
nhập pháp Vô Sanh Nhẫn nên Ngài có thể nhiếp thọ chúng sanh thế giới ta
bà tu tập niệm Phật, sanh về Tịnh Độ. Vô lượng kiếp về sau sẽ thành Phật
hiệu là Thiện Trụ Trân Bảo Sơn Vương Như Lai.
Nam Mô Vô Tận Ý Bồ Tát
4. Vô Tận Ý Bồ tát:
tiếng Phạm là Aksaya-mati, gọi là Vô Tận Huệ Bồ tát, Vô Lượng Ý Bồ tát,
theo Mật giáo là 1 trong 16 vị bồ tát trong Hiền Kiếp. Vô Tận Ý Bồ tát
đến từ chỗ Phật Phổ Hiền nước Bất Tuần ở phương đông. Thuyết 80 pháp môn
vô tận. Vì sao có tên là Vô Tận Ý? Vì Bồ tát quán sát tất cả nhơn duyên
quả báo muôn sự muôn vật là vô tận, tất cả các pháp cũng vô tận, do đó
Ngài phát Bồ đề tâm trên cầu công đức của chư Phật vô tận, dưới dùng
phương tiện độ chúng sanh vô tận. Cho nên có tên gọi là Vô Tận Ý.
Kinh Pháp Hoa Phẩm Phổ Môn thuyết rằng:
Bồ tát Vô Tận Ý tu hành Lục Độ ( Bố Thí, Trì Giới, Nhẫn Nhục, Tinh Tấn,
Thiền Định, Trí Tuệ) Tứ Nhiếp (Bố Thí, Ái Ngữ, Lợi Hành, Đồng
Sự).v.v…tất cả diệu hạnh, thệ độ tất cả chúng sanh, khi nào chúng sanh
các cõi hết thì ý của Bồ tát mới tận, nếu chúng sanh chưa hết thì ý của
Bồ tát cũng vô tận, cho nên gọi là Vô Tận Ý.
Nam Mô Bảo Đàn Hoa Bồ Tát
5. Bảo Đàn Hoa Bồ tát:
đây là vị Bồ tát chỉ thấy xuất hiện trong Kinh Dược Sư Lưu Ly Quang Như
Lai Bổn Nguyện Công Đức. Kinh Thất Phật dược Sư của Ngài Nghĩa Tịnh
dịch rằng: có 8 vị đại Bồ tát tên là Văn Thù Sư Lợi Bồ tát, Quán Thế Âm
Bồ tát, Đắc Đại Thế Chí Bồ tát, Vô Tận Ý Bồ tát, Bảo Đàn Hoa Bồ tát,
Dược Vương Bồ tát, Dược Thượng Bồ tát, Di Lặc Bồ tát. Kinh Dược Sư cua
ngài Huyền Trang cũng dịch rằng: Nếu nghe được danh hiệu của Đức Phật
Dược Sư, khi lâm chung sẽ có 8 vi đại Bồ tát dùng thần thông đến đưa
đường chỉ lối.
Nam Mô Dược Vương Bồ Tát
6. Dược Vương Bồ tát:
tiếng Phạm gọi là Bhaisajya-raya, dịch âm là Bệ Thệ Xá La Nhạ. Kinh
Pháp Hoa thuyết rằng: Bồ tát đốt thân mình cúng dường chư Phật để cầu
pháp, là vị đại sĩ ban cho chúng sanh lương dược để trị bịnh khổ của
thân và tâm.
Căn cứ theo Kinh Quán Dược Vương Dược
Thượng Nhị Bồ tát thuyết rằng: trong quá khứ vô lượng vô biên a tăng kỳ
kiếp, có Đức Phật hiệu là Lưu Ly Quang Chiếu Như Lai, nước của Đức Phật
đó tên là Huyền Thắng Phan, có vị Tỳ Kheo tên Nhựt Tạng, thông minh đa
trí, vì đại chúng rộng nói pháp Đại Thừa Vô Thượng Bình Đẳng Đại Trí của
Như Lai, lúc ấy trong chúng có vị trưởng giả tên là Tinh Tú Quang nghe
pháp Đại Thừa Bình Đẳng Đại Trí, tâm rất hoan hỷ, đem thuốc quý ở núi
tuyết cúng dường cho Tỳ Kheo Nhựt Tạng cùng chúng Tăng, phát tâm bồ đề
thệ nguyện diệt trừ 3 loại bịnh khổ của chúng sanh. Lúc bấy giờ đại
chúng tán thán vị trưởng giả là Dược Vương. Bồ tát nhiều đời tu hành
phạm hạnh, các hạnh nguyện đã viên mãn, trong đời vị lai Dược Vương Bồ
tát sẽ thành Phật hiệu là Tịnh Nhãn Như lai.
Nam Mô Dược Thượng Bồ Tát
7. Dược Thượng Bồ Tát:
Theo Kinh Quán Dược Vương Dược Thượng Nhị Bồ tát chép rằng: trong vô
lượng vô biên a tăng kỳ kiếp đời quá khứ, có Đức Phật hiệu là Lưu Ly
Quang Chiếu Như Lai, nước của Đức Phật đó tên là Huyền Thắng Phan, có vị
Tỳ Kheo tên Nhựt Tạng, thông minh đa trí, vì đại chúng rộng nói pháp
Đại Thừa Vô Thượng Bình Đẳng Đại Trí của Như Lai. Khi ấy có vị trưởng
giả tên Điện Quang Minh, nghe pháp Đại Thừa này tâm sanh hoan hỷ, đem
lương dược đề hồ cúng dường cho Tỳ Kheo Nhựt Tạng cùng chúng Tăng, phát
đại bồ đề tâm nguyện tu hành thành Phật. Lúc ấy đại chúng tán thán
trưởng giả Điện Quang Minh là Dược Thượng. Bồ tát nhiều đời tu hành phạm
hạnh, các hạnh nguyện đã viên mãn, trong đời vị lai Dược Thượng Bồ tát
sẽ thành Phật hiệu là Tịnh Tạng Như lai.
Nam Mô Di Lặc Bồ Tát
8. Di Lặc Bồ tát:
tiếng Phạm là Maitreya, còn gọi là Mai Hằng Lệ Dược, Vị Hằng Lý Dược,
Di Đế Lễ, Di Đế Khang, hoặc là Mai Nhậm Lê, dịch là Từ Thị, là vị Bồ tát
sẽ thành Phật trong tương lai sau Đức Phật Thích Ca, nên còn gọi là
Nhứt Sanh bổ xứ Bồ tát, Bổ Xứ Tát Đỏa hoặc Di Lặc Như Lai.
Kinh Hiền Ngu chép rằng: Di Lặc Bồ tát
thuộc dòng dõi Bà la môn, cha là Tu Phạm Ma, mẹ là Phạm Ma Đề Bạt, người
nam Thiên Trúc. Vì mẹ của Bồ tát Di Lặc sau khi mang thai Ngài thì tính
tình trở nên từ hòa bi mẫn, cho nên khi sanh Ngài đặt tên là Từ Thị.
Theo Kinh Di lặc Thượng Sanh và Di Lặc
Hạ Sanh thuyết rằng: Di Lặc Bồ tát là đệ tử của Đức Phật thích Ca, nhập
diệt trước Đức Phật, Ngài sanh lên cung trời Đâu Suất ở đó thuyết pháp
cho chư Thiên. Trong Kinh Nhứt Thiết Trí Quang Minh Tiên Nhân Từ Tâm
Nhơn Duyên Bất Thực Nhục chép: Di Lặc Bồ tát phát tâm không ăn thịt, vì
nhơn duyên này mà có tên là Từ Thị. Từ Thị Bồ tát còn có nghĩa là Từ
đứng đầu trong Tứ Vô Lượng Tâm của Phật, Từ là chủng tánh sinh ra chư
Phật, khiến cho tất cả thế gian không đoạn mất hạt giống Phật nên gọi là
Từ Thị.
Như vậy tên Di Lặc Bồ tát được kiến lập
trên căn bản bổn nguyện từ bi do nhiều đời nhiều kiếp Ngài tu tập Từ Bi
Tam Muội, cũng chính là Đức hạnh từ bi cứu độ đem đến sự an lạc cho
chúng sanh của Bồ tát. Ngài được Đức Phật thọ ký trong tương lai khoảng
năm mươi bảy ức sau ngàn vạn năm sẽ thành Phật hiệu là Di Lặc Phật, Di
lặc Như Lai. Hình tượng Di Lặc Bồ tát mà chúng ta thấy là hình tượng của
Bố Đại Hòa Thượng, vì khi thị tich Ngài có nói bài kệ: Di Lặc chơn Di
Lặc, hóa thân thiên bá ức, thời thời thị thời nhơn, thời nhơn tự bất
thức. Căn cứ vào bài kệ đó thế gian cho rằng Bố Đại Hòa Thượng là hóa
thân của Phật Di Lặc.