Mấy hôm nay, tôi nhận được nhiều điện thư của thân bằng quyến hữu gửi
lời chia buồn khi biết tin mẹ tôi đã qua đời. Nhưng với tôi, mẹ vẫn còn
đó; mẹ đang trong tôi trong từng hơi thở, mẹ vẫn sống mãi trong tâm
thức của các con của mẹ.
Khi một người qua đời, trước mắt ta, là khi trái tim họ đã ngừng đập,
hơi thở đã tàn; họ sẽ mãi mãi không còn trên đời để chia sẻ những buồn
vui, ấm lạnh; họ đã trở về với cát bụi hư vô, vào nước thiên đàng hay
hỏa ngục dựa trên niềm tin tôn giáo. Chính cái nhìn này đã làm ta khổ
đau, có vào thiên đàng thì vẫn có cái khổ đau của sinh ly, tử biệt mãi
mãi của đời người.
Theo tư tưởng Phật giáo, cái chết chỉ là một sự chuyển tiếp, một hiện
tượng hay biến cố trên dòng tiếp nối liên tục của sự sống. Vì vậy, tử
sinh là quy luật của đất trời, nó là sự chuyển hóa, sự tương tục giữa
cái không và có. Một đóa hoa tàn rụng xuống cội là nguồn dinh dưỡng để
nuôi dưỡng những chồi xanh, hoa trái về sau. Những giọt mưa từ trời rơi
xuống rồi một ngày nào đó, chúng sẽ lang thang cùng những đám mây trên
trời, hay thành những hạt sương trên núi cao, hòa mình thành con sóng
của biển khơi. Khi chúng ta nghĩ về luân hồi thì cái chết cũng vậy, nó
chỉ là một dấu lặng của một bản trường ca bất tận. Và nó chỉ hoàn toàn
chấm dứt như khi củi hết, lửa tàn của các vị đại ngộ.
Sáng nay trong vườn tôi, những đóa hoa chiều tím dung dị vươn mình
đón ánh bình minh. Hoa tên là chiều tím nhưng chỉ nở vào buổi sáng và
rồi úa tàn khi chiều về như những đóa phù dung. Vậy đó, màu hoa, tên hoa
như hình tướng bên ngoài, dễ làm cho ta nghĩ đến một loài hoa chỉ nở
khi chiều về, cho ta liên tưởng đến một trời chiều tím biếc màu hoa. Một
trái tim ngưng đập làm cho ta nghĩ đến sự chia ly vĩnh hằng.
Những năm tháng gần đây, trên sóng truyền hình quốc gia có một chương trình mang đậm tính nhân văn. Đó là “Như Chưa Hề Có Cuộc Chia Ly”.
Chương trình nhằm tìm kiếm những người thân đã thất lạc nhau trong vô
tình, trong thời ly loạn. Có những cuộc đoàn tụ đầy nước mắt sau bao
tháng ngày xa cách tưởng như mất nhau vĩnh viễn, nhưng cũng có những sự
đoàn tụ mà người thân chẳng còn có mặt trên đời. Dù rằng sinh ly tử biệt
nhưng đó vẫn không phải là sự chia ly vĩnh hằng, mà là như chưa hề có
cuộc chia ly.
Xưa khi, thấy mẹ thường niệm A-di-đà, tay lần chuỗi hạt, tôi nghĩ
thầm, người già nào mộ đạo chẳng thế; “trẻ vui nhà, già vui chùa”, nay
mẹ đã gần trăm tuổi, chân yếu mắt mờ, không lên chùa được, nên vui bằng
câu niệm Phật đó thôi. Thế nhưng, khi mẹ niệm Phật ngay cả trong giờ
phút lâm chung, nhẹ nhàng và thảnh thơi ra đi bên đám con cháu quây
quần, tôi mới hiểu sự nhiệm mầu của câu niệm A-di-đà…
Ngày mẹ mất, tôi cố không khóc vì sợ làm quyến luyến hương linh người
đi, tôi giấu giọt nước mắt trong lòng và vì tôi hiểu
thành-trụ-hoại-diệt là qui luật của đất trời, tôi nghĩ đến bài kệ thị
tịch của Thiền sư Vạn Hạnh về tính chất vô thường của vạn vật:
Thân như bóng chớp, có rồi không,
Cây cối xuân tươi, thu não nùng.
Mặc cuộc thịnh suy đừng sợ hãi,
Kia kìa ngọn cỏ giọt sương đông.
Một hôm, trong buổi kinh chiều, tôi bỗng hồi tưởng mẹ đã gieo duyên
cho anh em tôi trong những ngày theo mẹ lên chùa thời thơ ấu. Thuở ấy,
chúng tôi theo mẹ lên chùa không phải để nghe kinh, mà để được Sư thầy
cho cái oản hay nắm xôi, thậm chí là được xoa đầu hay theo mấy bạn cùng
trang lứa đi hái mận hái ổi trong vườn chùa. Nhưng những câu kinh thoáng
ẩn thoáng hiện như những chủng tử đã nằm sâu trong tâm thức tự bao giờ.
Tôi bắt đầu nhìn sâu vào các hiện tượng trong đời sống để thấy mọi sự
khởi nguồn từ trùng trùng điệp điệp nhân duyên mà mình không thấy được.
Những thăng trầm, mất còn, những buồn vui, những tiếc nuối trong cuộc
đời bỗng dưng nhẹ tênh, cái vấp ngã trên đường đời không làm tôi tuyệt
vọng như thời chưa hiểu hai chữ sắc-không.
Vu-lan năm nay tôi sẽ cài một bông hồng trắng lên áo. Màu trắng của
hoa để nhắc nhở tôi về tính vô thường của cuộc đời, của vạn pháp giai
không; và hoa hồng dù trắng hay hồng cũng là biểu tượng của lòng tri ân
công ơn dưỡng dục của mẹ cha.
Vu-lan cũng là thời khắc để chúng ta kính tưởng bốn ân lớn:
Ân Cha Mẹ.
Ân Tam bảo Sư trưởng.
Ân Đất nước Xã hội.
Ân Chúng sanh Vạn loại.
Vì sao ân cha mẹ lại đứng đầu trong các ân? Vì tâm hiếu là
tâm Phật, là nhận thức được sự hy sinh không bờ bến của mẹ “chỗ ướt mẹ
nằm – chỗ ráo con lăn”. Trong kinh Tăng Chi I, 75, Đức Phật có dạy:
“Này các Tỳ-kheo. Có hai hạng người trả ơn không thể nào được.
Thế nào gọi là hai? Đó là Mẹ và Cha. Nếu một bên vai cõng Mẹ, một bên
vai cõng Cha, làm như thế suốt trăm năm cho đến một trăm tuổi, người con
cũng chưa làm đủ hay trả ơn đủ cho Cha Mẹ..
Mùa Vu-lan năm nay, tôi nhất định lên chùa thật sớm, cầu nguyện cho
mẹ và tự nhắc mình nhớ làm tăng trưởng những điều thiện lành, và để được
cài một bông hồng trắng lên áo… ■
Văn Hóa Phật Giáo số 280 Vu Lan