Trở về nước vào giữa mùa Pháp nạn, biết đâu ông lại càng
cảm thấy thấm thía hơn về những gì mà mình vừa học ở đại học Princeton? Vài năm
sau khi bài viết của thiền sư Nhất Hạnh được nhiều người biết đến thì Phạm Thế
Mỹ viết bài hát "Bông Hồng Cài Áo, lúc ấy có lẽ ông cũng trạc 36 tuổi. Cả
hai vị cùng sáng tác vào lứa tuổi tràn đầy sức sống và chín chắn, một sức sống nẩy mầm từ
lòng mẹ và một sự chín chắn mang lại từ một giai đoạn lịch sử thật phức tạp và khó
khăn của dân tộc cũng như của Phật Giáo trên quê hương.
Phạm Thế Mỹ nhắm mắt vào năm 2009 để
lại cho chúng ta một cánh hoa thật đẹp. Thiền sư Nhất Hạnh thì vừa nhận bằng ngợi
khen của đại học Harvard ngày 12 tháng 9 năm 2013, và là người đã mang về cho
quê hương một tập tục thật đẹp nhằm nhắc nhở mỗi người trong chúng ta nhớ đến
công ơn của mẹ. Phải chăng đấy là những gì mà cả hai vị đã nhân danh mẹ để mang
lại cho cuộc đời này? Mỗi mùa Vu Lan, ai mà chẳng muốn nghe lại bài hát của Đặng
Thế Mỹ và cài lên áo mình một cánh hoa của thiền sư Nhất Hạnh.
Vị thiền sư kể lại sự tích về cánh
hoa Vu Lan như sau:
"Tây phương không có ngày Vu Lan nhưng cũng có Ngày Mẹ (Mother's
Day) mồng mười tháng năm. Tôi nhà quê không biết cái tục ấy. Có một ngày tôi đi
với Thầy Thiên Ân tới nhà sách ở khu Ginza ở Ðông Kinh, nửa đường gặp mấy người
sinh viên Nhật, bạn của thầy Thiên Ân. Có một cô sinh viên hỏi nhỏ Thầy Thiên
Ân một câu, rồi lấy ở trong xắc ra một bông hoa cẩm chướng màu trắng cài vào khuy
áo tràng của tôi. Tôi lạ lùng, bỡ ngỡ, không biết cô làm gì, nhưng không dám
hỏi, cố giữ vẻ tự nhiên, nghĩ rằng có một tục lệ chi đó. Sau khi họ nói chuyện
xong, chúng tôi vào nhà sách, thầy Thiên Ân mới giảng cho tôi biết đó là Ngày
Mẹ, theo tục Tây phương. Nếu anh còn mẹ, anh sẽ được cài một bông hoa màu hồng
trên áo, và anh sẽ tự hào được còn mẹ. Còn nếu anh mất mẹ, anh sẽ được cài trên
áo một bông hoa trắng.
Tôi nhìn lại bông hoa trắng trên áo mà bỗng thấy tủi thân. Tôi cũng mồ
côi như bất cứ một đứa trẻ vô phúc khốn nạn nào; chúng tôi không có được cái tự
hào được cài trên áo một bông hoa màu hồng. Người được hoa trắng sẽ thấy xót
xa, nhớ thương không quên mẹ, dù người đã khuất. Người được hoa hồng sẽ thấy
sung sướng nhớ rằng mình còn mẹ, và sẽ cố gắng để làm vui lòng mẹ, kẻo một mai
người khuất núi có khóc than cũng không còn kịp nữa. Tôi thấy cái tục cài hoa
đó đẹp và nghĩ rằng mình có thể bắt chước áp dụng trong ngày báo hiếu Vu
Lan".
Tôi vô cùng bàng hoàng
khi đọc đến câu: "Tôi cũng mồ côi như
bất cứ một đứa trẻ vô phúc khốn nạn nào". Chữ "khốn nạn" xoáy xâu vào tim tôi khiến tôi nghẹt thở. Ngày
nay không thấy mấy ai dùng đến từ này để nói lên một sự thương hại nào đó cho
những kẻ bất hạnh. Phải chăng từ này đã trở thành quá xưa và không còn phù hợp
với sự vô tình của ngày nay nữa? Thật vậy thiền sư Nhất Hạnh viết câu trên đây
cách nay đã nửa thế kỷ.
Trong quyển Việt Nam
Tự Điển do Hội Khai Trí Tiến Đức xuất bản năm 1931 chữ "khốn" được
giải thích là nghèo khổ, khó khăn, gian nan; chữ "khốn nạn" thì có
nghĩa là cùng khổ và hèn mạt. Quyển tự điển này lại còn đưa ra hai câu ca dao
làm thí dụ: Của rẻ ấy là của ôi, Lấy phải
vợ dại khốn tôi trăm đường; Khốn nạn
thay nhạn ở với ruồi, Tiên ở với cú
người cười với ma. Theo quyển Hán-Việt
Từ Điển của Đào Duy Anh xuất bản năm 1932 thì chữ khốn gốc tiếng Hán có
nghĩa là cùng khổ, chữ nạn có nghĩa là tai vạ nguy hiểm, và chữ khốn nạn thì có
nghĩa là khó khăn. Dầu sao thì nguyên gốc của chữ khốn nạn không hề mang hậu ý
của một sự nguyền rủa. Cách dùng trệch đi hay hiểu sai đã làm mất đi một chữ
rất đẹp trong ngôn ngữ Việt Nam. Thật vậy trong quyển Từ Điển "Từ và Ngữ" Việt Nam của Nguyễn Lân xuất bản năm
1989, và Từ Điển Tiếng Việt của nhà
văn và ngôn ngữ học Bùi Đức Tịnh, hình như được xuất bản lần đầu vào năm 2002, thì
chữ khốn nạn có hai nghĩa: nghĩa thứ nhất là khốn khổ đáng thương, và nghĩa thứ hai là hèn mạc đáng khinh bỉ. Các quyển từ điển khác gần đây hơn đều nêu
lên chữ khốn nạn với hai ý nghĩa như thế. Phải chăng vì lý do chữ khốn nạn mang
hai ý nghĩa đối chọi nhau nên không mấy ai dùng đến nữa hầu tránh mọi sự hiểu
lầm hay chăng?
Nếu thiền sư Nhất Hạnh
tự nhận mình là một đứa trẻ mồ côi, vô phúc và khốn nạn, thì tôi cũng sẽ sẵn
sàng chấp nhận và cám ơn bất cứ ai gọi tôi là một đứa trẻ vô phúc và khốn nạn,
dù là với ý nghĩa này hay ý nghĩa kia, hay là cả hai. Bởi vì chính cái khốn nạn
ấy đã giúp tôi lớn lên như một con người, xứng đáng với tình thương yêu của mẹ
tôi đối với tôi. Ngày còn bé mỗi khi vấp ngã, u đầu sứt trán hay đứt tay thì mẹ
tôi luôn nhai gừng để xát vào chỗ sưng hay để băng bó cho tôi, mẹ tôi vừa nhai vừa
xót xa lẩm bẩm: thật khốn nạn cho con tôi quá! Chữ khốn nạn hay câu nói đau
lòng ấy của mẹ tôi vẫn còn âm vang trong trí tôi đến mãi ngày hôm nay.
Ngành y khoa cách nay
ba phần tư thế kỷ thật hết sức là đơn giản. Nếu đau bụng, kiết lỵ hay tiêu chảy
thì có thuốc Ganidan, nóng sốt thì có thuốc Aspirin, viên nào cũng thật to, mẹ
tôi phải bẻ ra làm tư hay ngâm vào nước. Thế nhưng cái khủng khiếp nhất cho
những đứa trẻ thời bấy giờ là ho cảm và phải bị tiêm thuốc. Một hôm tôi nóng
sốt và ho suốt đêm, mẹ tôi không ngủ và thỉnh thoảng đặt tay lên trán tôi, lo
lắng vì cứ sợ tôi bị "ho gà" hay "sưng phổi". Sáng hôm sau
mẹ tôi cõng tôi từ làng Vĩnh Thanh Vân ra nhà thương ở chợ Rạch Giá. Ngày ấy
tôi đã được ba hay bốn tuổi, tôi có thể đi bộ được, thế nhưng từ cửa nhà mẹ tôi
đã đưa lưng để cõng tôi. Trên lưng mẹ, tôi biết rằng thế nào tôi cũng bị tiêm
thuốc. Thời bấy giờ, không cần phân biệt là trẻ con hay người lớn, cứ hễ ho cảm
nhất là thêm nóng sốt, thì phải tiêm Eucalyptine, một thứ thuốc làm bằng dầu
khuynh diệp. Tiêm dầu thì phải dùng kim to, và dầu thì khó tan nên mông thường sưng
lên và bầm tím, có khi làm độc.
Ở nhà thương, sau khi
chờ một lúc lâu thì đến lượt mẹ con tôi. Bác sĩ khám xong thì một bà y tá lấy
một ống thuốc màu xanh lá cây tiêm cho tôi. Tôi nhất định không khóc vì tôi
không muốn nghe mẹ tôi thốt ra cái câu xót xa ấy: thật khốn nạn cho con tôi quá!
Tiêm thuốc xong bà y tá xốc nách tôi và đặt tôi đứng xuống đất. Tôi chỉ đứng
được một chân, mẹ tôi ngồi sụp xuống đất ghé lưng để cõng tôi. Vị bác sĩ và bà
y tá nhìn mẹ con chúng tôi và mỉm cười. Trên đường về trời nắng, thỉnh thoảng
mẹ tôi lại hất ngược cái nón lá ra phía sau để che đầu tôi. Về đến nhà khi
buông cổ mẹ thì tôi thấy lưng áo bà bà đen của mẹ thấm ướt cả mồ hôi. Tôi suýt
bật khóc, cố nín, nước mắt chảy quanh...
Lớn lên tôi mới hiểu
rằng tình mẫu tử cũng chỉ là một hình thức hay một thể dạng của nghiệp, nghiệp
của mẹ tôi và của tôi. Cái nghiệp ấy phát lộ trên dòng tri thức của tôi sớm hơn
một số các đứa trẻ khác thế thôi. Cái nghiệp ấy mỗi người đều có, thế nhưng có
nhiều người khi lớn tuổi mới biết thương cha mẹ, và thường thì đã muộn, muộn
cho mẹ và cho cả chính mình nữa. Trong dịp lễ Vu Lan nếu có ai cài lên áo mình
một cánh hoa để nhắc nhở mình nên nghĩ đến cha mẹ cũng là một điều hay, tuy
nhiên nếu cánh hoa ấy nở ra một cách tự nhiên trong lòng mình thì vẫn tốt hơn. Dầu
sao thì cái nghiệp gọi là tình mẫu tử cũng phát lộ nơi mỗi cá thể bằng những cách
khác nhau và ở những cấp bậc khác nhau. Chẳng phải là có những bậc cha mẹ hành
hạ và ngược đãi con cái và đôi khi còn giết cả con cái mình nữa hay sao? Ngược
lại cũng có những người con bất hiếu, bòn rút, đánh đập hay dằn vặt mẹ cha. Đối
với các trường hợp ấy thì một cánh hoa trên áo nào có đủ sức để mang lại một
tác động nào. Lý do cũng dễ hiểu, bởi vì những xung năng và tác động khác của
nghiệp quá mạnh đã che lấp hoặc hóa giải cả tình mẫu tử. Ít ra đối với trường hợp
của riêng tôi thì suốt quãng đời tôi mỗi khi nhớ đến lưng áo thấm ướt mồ hôi
của mẹ thì tôi lại cảm thấy hiện ra trong tôi một sức mạnh nào đó thật thiêng
liêng, giúp tôi đứng lên thật thẳng giữa cuộc đời này bằng đôi chân của chính mình.
Một thoáng cảm tính thương
mẹ dù thật nhẹ nhàng và bất chợt đi nữa đôi khi cũng đủ để đánh thức những xúc
cảm thật thanh cao của lòng hiếu thảo nơi mỗi người trong chúng ta, chẳng hạn
như khi đang ăn một quả chuối hay một nắm xôi và chợt nhớ đến mẹ. Thiền sư Nhất
Hạnh đã ví tình mẹ qua hai câu ca dao như sau:
"Mẹ già như chuối ba
hương
Như xôi nếp một, như đường mía
lau"
Chuối ba hương là một
loại chuối tuy không đẹp mã nhưng rất thơm ngon, nếp một là loại nếp ngon nhất.
Qua hai câu ca dao trên đây, người mẹ được biểu hiện bằng môt cái gì đó thận
đơn sơ, giản dị và tự nhiên. Thế rồi vị thiền sư lại nhắc đến người mẹ bằng một
cách khác hơn:
"Một món quà như mẹ mà còn không vừa ý thì họa chăng có làm Ngọc Hoàng
Thượng Đế mới vừa ý, mới bằng lòng, mới sung sướng. Nhưng tôi biết Ngọc Hoàng không
sung sướng đâu, bởi Ngọc Hoàng là đấng tự sinh, không bao giờ có diễm phúc có
được một bà mẹ"
Nếu chữ khốn nạn khiến
cho tôi phải bàng hoàng thì chữ Ngọc Hoàng khiến cho tôi bừng tỉnh. Thật vậy,
mỗi người trong chúng ta đều có một nguồn gốc, một người mẹ, một quê hương.
Chính cái nguồn gốc đó giúp mỗi người trong chúng ta cảm thấy mình hiện hữu rất
thật và biết yêu thương một cách cũng rất thật. Chẳng phải là chúng ta có một
người mẹ rất thật, một quê hương rất thật để yêu thương hay sao? Cái lưng áo
thấm ướt mồ hôi của mẹ tôi lúc nào cũng rất thật trong lòng tôi. Con đường mòn
dọc bờ sông Rạch Giá dưới nắng trưa lúc nào cũng in đậm trong ký ức tôi. Biết
yêu thương mẹ sẽ giúp chúng ta không bao giờ cảm thấy mình cô đơn, dù cho một
người nào đó có cài lên áo mình một cánh hoa màu trắng.
Tất cả mọi sự vật đều
có nguồn gốc, tất cả mọi xúc cảm dù chỉ thoáng qua, cũng đều có nguyên nhân. Bất
cứ gì không cội nguồn, không quê hương sẽ chỉ là cô đơn, bơ vơ và lẻ loi. "Ngọc Hoàng Thượng Đế nào có cái diễm phúc
có được một bà mẹ đâu?" Nếu Ngọc Hoàng Thượng Đế có được một người mẹ
thương yêu mình, ghé lưng để cõng mình, thì biết đâu con người sẽ không như
ngày nay, hay ít ra thì cũng không có những người mẹ cô đơn và những người con
bất hiếu.
Dầu sao thì các cách
diễn đạt trên đây của thiền sư Nhất Hạnh và của tôi cũng chỉ là những cách nói
lên xúc cảm của mình. Thế nhưng xúc cảm lại mang hai thể dạng khác nhau: xúc
cảm của yêu thương và rung động và xúc cảm của lý trí. Nói rộng ra là xúc cảm
của lòng từ bi và xúc cảm của sự hiểu biết hay là trí tuệ. "Mẹ già như chuối ba hương, như xôi nếp một như đường mía
lau" là xúc cảm của con tim. Thương cho Ngọc Hoàng Thượng Đế không cội
nguồn và "không bao giờ có diễm phúc
có được một bà mẹ" là xúc cảm của khối óc. Dầu sao thì xúc cảm cũng
chỉ là những hình thức phát lộ của nghiệp, dù sự phát lộ đó hiện ra dưới hình
thức từ bi và trí tuệ, hay hận thù và si mê. Một người tu tập khi đã ý thức
được điều đó sẽ biết hướng những rung động của con tim và khối óc mình vào từ bi
và trí tuệ, thay vì cứ mặc cho các thể dạng bấn loạn của chúng chi phối sự hiện
hữu của mình.
Thuở ấu thời tôi thường
đứng ở cửa bếp nhìn đàn gà kiếm ăn trong khu vườn sau nhà. Con gà mái bới đất,
đàn gà con chạy tản mát chung quanh. Mỗi khi tìm được một hạt thóc hay một con trùn
thì gà mẹ mổ lên lại nhả xuống, vừa gọi đàn con bằng những tiếng kêu cục cục,
đàn gà con chim chíp bu lại và tranh nhau miếng mồi. Bới đất thế nhưng gà mẹ vẫn
thỉnh thoảng ngẩng cổ canh chừng trên bầu trời. Nếu có bóng một con diều hâu
thì gà mẹ nằm bẹp xuống đất, xoè cánh, lông cổ lông ức dựng ngược lên và không
ngớt gọi con, đàn gà con chạy lại nấp dưới hai cánh và ức của gà mẹ. Gà mẹ
ngẩng cổ và hơi nghiêng đầu để theo dõi bóng diều hâu trên không trung, dáng còn
có vẻ như thách thức nữa. Đám gà trống thì cứ thản nhiên bới đất tìm mồi, hoặc
đuổi các con gà mái khác để cắn cổ mà đạp, sau đó lại còn gân cổ mà gay ó o.
Lớn thêm và vào cái
tuổi vị thành niên tôi có đọc một câu chuyện ngắn rất cảm động nói lên một sự
hy sinh lớn nhất mà một người mẹ có thể làm được, ấy là câu chuyện "Anh Phải
Sống" của Khái Hưng một nhà văn của thời tiền chiến. Câu chuyện thuật lại
hai vợ chồng nghèo đi vớt củi trên sông vào mùa lũ lụt để đổi gạo nuôi ba đứa
con nhỏ. Nước xoáy, củi nặng, thuyền chao và đắm giữa dòng. Hai vợ chồng cố lội
vào bờ. Người vợ đuối sức, người chồng phải xốc vợ mà bơi. Thế nhưng một lúc
sau thì người chồng cũng đuối vì sức nước mạnh quá:
"- Mỏi lắm
rồi, mình vịn vào tôi, để tôi bơi! Tôi không xốc nổi được mình nữa.
Mấy phút sau chồng
nghe chừng càng mỏi, hai cánh tay rã rời. Vợ khẽ hỏi:
- Có bơi được nữa
không?
- Không biết. Nhưng
một mình thì chắc được.
- Em buông ra cho mình vào nhé?
Chồng cười:
- Không! Cùng chết cả.
Một lát, một lát
nhưng Lạc coi lâu bằng một ngày, chồng lại hỏi:
- Lạc ơi! Liệu có
cố bơi được nữa không?
- Không!... Sao?
- Không. Thôi đành
chết cả đôi.
Bỗng Lạc run run khẽ nói:
- Thằng Bò! Cái Nhớn! Cái Bé!... Không!... Anh phải sống!
Thức bỗng nhẹ hẳn đi. Cái vật nặng không thấy bám vào mình nữa. Thì ra
Lạc nghĩ đến con đã lẳng lặng buông tay ra để chìm xuống đáy sông, cho chồng đủ
sức bơi vào bờ".
Đang
viết về những gì rất thật, thế nhưng tại sao tôi lại nêu lên sáng tác của một
nhà văn? Theo Phật Giáo thì trong thế giới hiện tượng, sự thật hiện ra dưới
nhiều hình thức và thể dạng khác nhau, dù đấy là những sự thật thuộc các lãnh
vực chính trị, lịch sử hay tín ngưỡng. Có những sự thật cần phải có một đức tin
hoặc một sự cố gắng nào đó, chẳng hạn như những lời thuyết giảng hay những lời hô
hào để có thể cảm thấy chúng là thật. Những sự thật ấy chỉ mang lại những xúc
cảm giả tạo, gượng ép và phù du. Tuy nhiên cũng có những thứ sự thật khác rất
nhỏ nhoi và tầm thường, tưởng chừng như không có hay không thật, thế nhưng lại
rất thật, chẳng hạn như tình thương của một người mẹ. Sở dĩ đôi khi chúng ta
không nhận thấy được cái sự thật ấy của tình mẫu tử, chẳng qua là vì nó quá
giản dị, tầm thường hoặc quá kín đáo. Giản dị "như quả chuối ba hương, như nắm xôi nếp một", tâm thường
như con gà bới đất, như con chim tha mồi, kín đáo như những giọt mồ hôi trên
lưng áo của mẹ tôi, hay một bàn tay buông ra giữa dòng nước xoáy.
Một
thí dụ điển hình là bài hát "Bông Hồng Cài Áo" của Phạm Thế Mỹ vẫn cứ
còn tiếp tục được hát lên trong mùa Vu Lan, chẳng qua là bởi vì có một cái gì
đó rất thật, tàng ẩn ở bên trong nó, trong khi các bài hát khác của ông thì lại
ít nhiều đã chìm vào quên lãng. Tiếng gọi tên ba đứa con của một người mẹ và những
lời cuối cùng nhắn bảo với chồng là anh phải sống, chỉ là một sự tưởng tưởng
của một nhà văn, thế nhưng hình như bên trong vẫn ẩn chứa một sự thật nào đó,
bởi vì cái sự thật ấy đã có sẵn và tàng ẩn thật sâu kín nơi mỗi người trong
chúng ta. Nhà văn chỉ khơi động và làm sống dậy cái sự thật ấy trong lòng chúng
ta mà thôi.
Thật
là khốn nạn cho một người mẹ vì sự sống của đàn con mà phải buông tay giữa dòng
nước xoáy. Tuy nhiên đôi khi chúng ta cũng có thể thấy được trường hợp của một người
cha can đảm, dám hy sinh tất cả vì mục đích của đời mình, thế nhưng không phải là
hy sinh mạng sống của mình mà là mạng sống của con mình. Nếu Ngọc Hoàng Thượng
Đế là một bà mẹ, thì biết đâu thế giới này cũng sẽ khác hơn, ít ra cũng bớt hung
bạo và chiến tranh hơn, dù cho con người cũng có thể vì thế mà phải mang bản
chất của một người mẹ, một người phụ nữ, tức mềm yếu hơn và dễ rơi nước mắt
hơn.
Thật
ra mềm yếu hay can đảm cũng chỉ mang tính cách tương đối. Nụ cười trên môi của
vị bác sĩ và bà y tá khi trông thấy mẹ tôi ngồi sụp xuống đất để ghé lưng cõng
tôi, vẫn còn ám ảnh tôi cho đến ngày nay, chẳng qua vì tôi vẫn không hiểu được
ý nghĩa của những nụ cười ấy là gì. Cười trước sự gan lì của một đứa bé bị tiêm
thuốc eucalyptine mà không khóc, hay là cười vì tình thương con quá đáng của một
người mẹ, hay là biết đâu những nụ cười ấy cũng chỉ là những nụ cười rẻ tiền, vô
thưởng vô phạt và chẳng mang một ý nghĩa nào cả? Thật vậy, nếu muốn hiểu được
sự gan lì của một đứa bé và sự yếu mềm trong lòng một người mẹ, thì phải có một
sự rung động thật tinh tế, một sự hòa nhập nào đó với những gì sâu kín trong
lòng họ.
Sự
yếu mềm trong lòng của một người mẹ cũng có thể toát ra một sức mạnh bằng những
giọt mồ hôi trên lưng áo. Sự gan lì trong lòng một đứa bé cũng có thể biến thành
những vần thơ thật yếu mềm:
Đóa hoa nào trên áo?
Đóa hoa nào trong tim?
Xin cài lên áo em,
Một đóa hoa màu thắm.
Trắng tinh màu áo anh,
Cài hộ anh hoa trắng.
Trong tim anh heo héo,
Đau nhói một cánh hồng.
Bụi trần vương áo anh,
Đã bao lần hoa héo.
Nghìn năm anh vun xới,
Cánh hoa nào trong tim?
Áo anh vạt nắng chiều,
Hoen hoen màu hoa trắng.
Tim anh, em biết không?
Đỏ thắm một nụ hồng.
(30.08.13)
Tuy
giản dị, vụng về và mộc mạc thế nhưng tôi vẫn xin hiến dâng những vần thơ này
cho tất cả những ai có một người mẹ và cả những ai không có mẹ.
Bures-Sur-Yvette, 19.09.13
Hoang Phong