Lễ Tắm Phật là một trong những nghi thức phổ biến của Lễ hội
 Phật đản hằng năm trong nhiều truyền thống Phật giáo khác nhau. Nghi 
thức này vốn đã xuất hiện khá lâu tại Ấn Độ, Trung Á và Trung Hoa, và 
ngày nay được duy trì trong hầu hết các cộng đồng Phật giáo khắp nơi như
 là một cử chỉ, một hành động để tỏ lòng tôn kính, hân hoan của người 
con Phật đối với sự xuất hiện của đấng Giác Ngộ trên cuộc đời này, cách 
đây hơn 2.600 năm.
               Nguồn
 gốc của Lễ Tắm Phật xuất phát từ sự kiện Đản sanh của Thái tử 
Tất-đạt-đa tại vườn Lâm-tỳ-ni. Các bản kinh thuộc hai truyền thống Nam 
và Bắc truyền đều ghi lại rằng, khi hoàng hậu Ma-da đản sanh thái tử, từ
 trên không trung có hai dòng nước của chư thiên, một ấm một mát, rưới 
xuống để tắm cho hoàng hậu và thái tử. sự kiện này được ghi lại trong 
kinh Đại bổn (Trường Bộ II), kinh Hy hữu vị tằng hữu pháp (Trung Bộ III), lời mở đầu của bản chú giải truyện Bổn Sanh (Nidānakatha)[1]. Theo bộ Đại sự (Mahāvastu), khi thái tử ra đời, hai dòng nước ấm và lạnh thơm dịu, trong lành từ trên không trung rưới xuống để tắm cho Thái tử[2]. Tác phẩm Phật sở hành tán của ngài Mã Minh cũng ghi lại như trên[3].
   
    Lễ Tắm Phật
    Riêng kinh Phổ diệu thì ghi lại rằng lúc ấy từ trên hư không có chín con rồng phun nước xuống để tắm cho thái tử[4].
 Căn cứ vào các tác phẩm này, các nghệ nhân Phật giáo đã mô tả lại cảnh 
Đản sanh của thái tử với rồng phun nước trong nhiều tác phẩm điêu khắc 
tại Lộc Uyển phía Bắc Ấn và Amarāvatī tại Nam Ấn. Một tác phẩm thuộc 
trường phái Gandhara được lưu giữ tại bảo tàng Peshawar (Pakistan) mô tả
 cảnh hai cung nữ đứng hầu bên thái tử, bên trên có trời Đế Thích và 
Phạm Thiên rưới nước từ cành hoa sen để tắm cho thái tử, hai bên thái tử
 lại có bốn vị chư thiên đang cung kính chiêm ngưỡng.
  Theo kinh Quá khứ hiện tại nhân quả,
 khi thái tử ra đời có bốn vị Thiên vương dùng vải quý cõi trời nâng 
thái tử, Thích Đề Hoàn Nhơn mang lọng báu cùng Đại Phạm Thiên đứng hầu 
hai bên. Lúc đó có hai vị Long vương là Nan-đà và Ưu-ba-nan-đà từ trên 
hư không phun hai dòng nước ấm và mát để tắm thân Thái tử[5].
 Có lẽ chính sự cung kính của chư thiên đối với sự kiện Đản sanh của 
thái tử được mô tả trong bản kinh này đã tạo nguồn cảm hứng để về sau 
trong mùa Phật đản, người Phật tử thường tôn trí tượng Đản sanh trong 
một bồn hay thau sạch và quý, đặt trong điện thờ Phật hay một nơi nào đó
 trang nghiêm, dùng nước sạch có ướp các loài hoa thơm để làm lễ tắm 
Phật nhằm tưởng nhớ đến ân đức của Đức Phật và bày tỏ niềm tôn kính sâu 
xa đối với Ngài.
  Tuy
 chưa thể xác định được thời điểm cụ thể của sự xuất hiện Lễ Tắm Phật 
tại Ấn Độ, nhưng điều chắc chắn là lễ nghi này vốn phát xuất từ Ấn Độ 
trước khi được lưu truyền đến các quốc gia Phật giáo khác. Kinh Đại bảo tích
 có ghi lại chuyện công chúa Vimaladattā, con gái của vua Ba-tư-nặc ở 
thành Xá-vệ cùng với năm trăm Bà-la-môn ra khỏi thành, mang theo những 
lọ đựng đầy nước để dự lễ tắm tượng của một vị trời. Đoàn người vừa ra 
khỏi cổng thành thì gặp một số vị Tỳ-kheo. Các Bà-la-môn này cho rằng 
việc gặp đoàn Tỳ-kheo như thế là điềm chẳng lành nên bàn nhau quay về. 
Nhưng khi ấy công chúa Vimaladattā bằng cung cách từ ái và trí tuệ sắc 
sảo của mình đã giải thích cho các Bà-la-môn, khiến họ khởi tâm kính tín
 đối với Phật pháp. Câu chuyện này cho thấy sự tương hệ nào đó giữa Lễ 
Tắm Phật trong Phật giáo và lễ tắm tượng các vị thần trong Bà-la-môn 
giáo. Từ xa xưa, tín đồ Ấn giáo xem sông Hằng như một vị nữ thần linh 
thiêng và rằng nước của con sông này có khả năng rửa sạch tội lỗi cho 
những ai có nhân duyên được tắm và cầu nguyện ngay trong dòng sông ấy. 
Nhưng trong kinh Tự thuyết (Udāna), Đức Phật đã khẳng định rằng
 không có nước của sông nào có thể rửa sạch được tội lỗi và làm cho con 
người ta được thanh tịnh, dù đó là sông Hằng hay sông Già-da, mà chính 
sự thực hành pháp chân chính mới giúp cho con người được tịnh hóa.
  Tác phẩm Nam hải ký qui nội pháp truyện
 của ngài Nghĩa Tịnh (635-713), người đã rời Trung Hoa vào năm 671 và 
sau đó tu học tại Ấn Độ trong khoảng thời gian mười năm, là một trong 
những sử liệu quý ghi lại chi tiết về những sinh hoạt tự viện và các qui
 chế của Tăng đoàn Phật giáo đương thời tại Ấn Độ. Quyển thứ tư của tác 
phẩm này có thuật lại cách thức tắm rửa các tôn tượng trong những tu 
viện Phật giáo như sau: “Tại các tu viện ở những nước phía Tây (Ấn 
Độ và Trung Á), vào buổi sáng diễn ra lễ tắm các tôn tượng, vị Thọ Sự 
(Karmadāna - vị sư phụ trách) gióng kiền trùy, cho giăng lọng báu quanh 
sân chùa, sắp những bình nước thơm thành hàng dọc theo điện Phật, sau đó
 đặt tôn tượng bằng vàng hoặc bạc, đồng hay đá vào bồn bằng vàng hoặc 
đồng, đá, hay gỗ. Trong khi các thiếu nữ tấu nhạc cúng dường, các vị sư 
đem dầu thơm (làm từ chiên đàn, trầm hương) bôi khắp tượng rồi dùng nước
 thơm rưới tắm tôn tượng. Sau khi tắm rửa tượng xong, các vị sư lấy vải 
trắng sạch lau khô tượng rồi đem an trí lại trong điện Phật, dùng nhiều 
loại hoa trang hoàng quanh tượng. Nghi thức này do chúng Tăng trong chùa
 thực hiện theo sự hướng dẫn của vị Thọ sự. Tại các liêu phòng trong tu 
viện, mỗi ngày chư Tăng theo cách thức trên mà tắm rửa cẩn trọng những 
tôn tượng trong phòng mình[6]… đối với 
những tượng đồng, dù là nhỏ hay lớn, đều lấy tro mịn hay bột gạch để lau
 cho bóng, dùng nước sạch để tắm rửa cho đến khi tượng đẹp và trong như 
gương. Đối với tượng lớn, đại chúng trong tu viện cùng nhau lau tắm 
tượng trong mỗi nửa tháng hay mỗi tháng; còn với tượng nhỏ, nếu có thể, 
thì mỗi vị lau tắm mỗi ngày. Làm được như thế thì ít hoang phí, mà lại 
nhiều phước đức. Nếu lấy hai ngón tay thấm vào nước vừa được dùng để tắm
 tượng mà nhỏ lên đầu, thì đó gọi là nước cát tường. ”[7]
  Tại Trung Hoa, sách Ngô thư
 là một trong những tư liệu đầu tiên nói đến Lễ Tắm Phật vào thời Tam 
quốc. Đến TK IV, Thạch Lặc (trị vì 319-333) của nhà Hậu Triệu đã tổ chức
 lễ tắm Phật. Phần tiểu sử ngài Phật Đồ Trừng trong Cao tăng truyện
 có ghi lại rằng Thạch Lặc thường gởi con mình vào các tu viện nhờ các 
nhà sư nuôi dưỡng và dạy dỗ. Mỗi khi đến ngày mồng tám tháng Tư, đích 
thân Thạch Lặc đến tu viện dự lễ tắm Phật để cầu phước báu cho con mình[8]. Phật tổ thống kỉ
 cũng ghi rằng ngày mồng tám tháng tư năm thứ sáu niên hiệu Đại Minh 
(462), vua Hiếu Võ Đế thiết lễ tắm Phật và lễ cúng dường chư Tăng ngay 
trong hoàng cung[9]. Như thế, đến thời 
Nam Bắc Triều, lễ tắm Phật không những được tổ chức trong các tu viện 
Phật giáo mà ngay cả trong hoàng cung. Do ảnh hưởng của sự khác biệt về 
quan điểm lịch sử của các tông phái Phật giáo tại Ấn Độ về ngày tháng 
Đản sanh của Đức Phật[10] và cũng do 
những tác động của xã hội và văn hóa Trung Hoa trong nhiều giai đoạn 
khác nhau, nên ngày Lễ Tắm Phật tại quốc gia này được tổ chức vào nhiều 
thời điểm trong các thời đại khác nhau. Dưới thời Nam Bắc Triều 
(386-577), Lễ Tắm Phật được tổ chức vào ngày mồng tám tháng Tư. Từ đời 
nhà Lương (502-557) cho đến đời nhà Liêu (916-1125), lễ này lại được 
diễn ra vào ngày mồng tám tháng Hai[11].
 Song vào đời nhà Tống (960-1279) lễ được tổ chức vào ngày mồng tám 
tháng Chạp tại miền Bắc, nhưng ở miền Nam thì là ngày mồng tám tháng Tư.
 Sách Đông kinh mộng hoa lục ghi lại Lễ Tắm Phật vào cuối đời 
Tống rằng vào ngày mồng tám tháng Tư, cứ mỗi một trong số mười thiền 
viện lớn tại Lạc Dương đều tổ chức Lễ Tắm Phật và cúng dường chư Tăng[12]. Nghi thức Lễ Tắm Phật cũng là một phần quan trọng trong bộ Bách Trượng thanh quy,
 được áp dụng trong các thiền viện kể từ thời ngài Bách Trượng 
(749-814). Trong các đời nhà Minh, Thanh, Lễ Tắm Phật đều được tổ chức 
vào ngày mồng tám tháng Tư. Trong số những bản kinh có ảnh hưởng nhiều 
đến cách thức tổ chức và ý nghĩa của Lễ Tắm Phật tại Trung Hoa, thì kinh
 Công đức tắm Phật là bản kinh được biết đến nhiều nhất.
  Kinh Công đức tắm Phật
 (Dục Phật công đức kinh, T16n698) được ngài Nghĩa Tịnh dịch từ nguyên 
bản Phạn ngữ sang Hán ngữ vào năm 710. Đây là một bản kinh ngắn và hiện 
thời chỉ còn lưu lại trong đại tạng Trung Hoa. Nội dung của bản kinh này
 rất giống với kinh Công đức tắm tượng (Phật thuyết dục tượng 
công đức kinh, T16n697) do ngài Bảo Tư Duy (Manicintana?) đến từ Ấn Độ 
dịch vào năm 705. Riêng bài kệ nói về lý duyên sinh trong kinh lại giống
 với bài kệ trong kinh Công đức tạo tháp (Phật thuyết tạo tháp công đức kinh, T16n699) cũng do một nhà sư Ấn Độ, ngài Địa-bà-ha-la (Divākara) dịch vào năm 680.
     
  
  Lễ Tắm Phật
   Kinh Công đức tắm Phật
 được mở đầu với hai câu hỏi chính của Bồ-tát Thanh Tịnh Huệ: 1. Do đâu 
mà chư Phật thành tựu sắc thân thanh tịnh, đầy đủ tướng tốt? 2. Những 
chúng sanh sinh ra đời, gặp Phật và phát tâm cúng dường thì được vô 
lượng công đức, còn sau khi đức Phật nhập diệt, chúng sanh nên cúng 
dường gì, tạo công đức gì để mau chứng được vô thượng Bồ-đề? Đức Phật 
dạy rằng Như Lai thành tựu sắc thân thanh tịnh là do tu tập những diệu 
pháp cao thượng như Lục Độ, Tứ Vô Lượng Tâm, các pháp vô uý, trí tuệ… 
Nếu đối với các bậc giác ngộ như thế mà dùng tâm thanh tịnh để cúng 
dường hương, hoa… hoặc đối trước tôn tượng các Ngài mà trang hoàng, 
nghiêm sức, dùng hương quý, nước thơm theo nghi thức mà tắm tôn tượng, 
đánh trống thỉnh chuông, xưng tán công đức của Như Lai, lại phát nguyện 
thù thắng, hồi hướng chứng đắc trí tuệ vô thượng, thì hành giả sẽ được 
vô lượng vô biên công đức. Chư Phật vốn có ba thân là pháp thân, thọ 
dụng thân và hóa thân. Vì thế, sau khi Đức Phật nhập diệt, nếu muốn cúng
 dường ba thân này thì nên cúng dường xá-lợi. Song xá-lợi lại có hai 
loại là thân cốt xá-lợi và pháp tụng xá-lợi. Trong bảy chúng đệ tử Phật,
 như ai muốn tạo tượng Phật, nếu không đủ khả năng, dầu tạo một pho 
tượng rất nhỏ, một ngôi tháp nhỏ để tôn thờ xá-lợi nhỏ như hạt cải, hoặc
 lại có người chỉ chép một bài kệ tụng trong kinh rồi an trí trong tháp 
thì cũng giống như đang dâng cúng một viên ngọc báu vào tháp, tùy theo 
khả năng mà chí thành cung kính cúng dường như thế thì không khác chi 
như đang cúng dường hiện thân của đức Phật. Những ai chí tâm cúng dường 
như thế sẽ có được mười lăm công đức thù thắng sau: 1. thường biết tàm 
quý; 2. phát khởi niềm tin thanh tịnh; 3. tâm ngay thẳng; 4. được gần 
gũi bạn lành; 5; chứng huệ vô lậu; 6. thường gặp chư Phật; 7. luôn hành 
trì chánh pháp; 8. làm đúng với lời nói; 9. tuỳ ý sanh vào quốc độ chư 
Phật; 10. nếu sanh trong nhân gian thì sanh vào dòng họ tôn quý, được 
người khác tôn kính, khởi tâm hoan hỷ; 11. nếu sanh trong nhân gian thì 
tự nhiên biết niệm Phật; 12. không bị ma quân gây tổn hại; 13. hay hộ 
trì chánh pháp trong thời mạt pháp; 14. được chư Phật trong mười phương 
gia hộ; 15. mau thành tựu được năm phần pháp thân. Sau khi giảng dạy như
 thế, Đức Phật liền nói kệ trùng tuyên lại nghĩa trên.
  Phần
 quan trọng thứ hai của bản kinh là lời giải đáp của Đức Phật cho Bồ-tát
 Thanh Tịnh Huệ về cách thức tắm tượng Phật trong đời vị lai. Đức Phật 
dạy rằng khi tắm tôn tượng nên dùng các loại hương thơm như ngưu đầu 
chiên đàn, bạch đàn, tử đàn, trầm hương, uất kim hương, long não, xạ 
hương… pha vào nước sạch, đựng trong bình sạch. Chọn một nơi thanh tịnh,
 đẹp đẽ thiết lập đàn tràng, hoặc vuông hay tròn, kích thước xứng hợp, 
trên đàn đặt một bệ tắm, ở giữa bệ này tôn trí tượng Phật. Khi tắm tượng
 thì dùng nước nóng thơm, trong sạch rưới từ trên xuống, sau đó tiếp 
dùng nước tinh khiết để tắm lại. Nước dùng để tắm này phải được lọc cho 
thật sạch để không làm tổn hại đến các vi trùng. Nếu lấy hai ngón tay 
thấm vào nước vừa được dùng để tắm tượng rồi nhỏ lên đầu, thì nước này 
được gọi là nước cát tường. Không được giẫm chân lên dòng nước tắm tượng
 đang chảy trên đất sạch. Sau khi tắm tượng xong, dùng khăn mềm, mịn và 
sạch lau khô tượng, xông các loại hương trầm thơm quanh tượng, rồi đặt 
tượng về vị trí cũ trong điện Phật. Đức Phật còn dạy rằng, nhờ việc tắm 
tượng như thế, chúng sanh trong hiện đời được nhiều phước báu thù thắng,
 sở nguyện thành tựu, quyến thuộc được an ổn, mau thành chánh giác. Sau 
khi an trí tượng về chỗ cũ, nên đối trước tượng dâng hương, chắp tay 
thành kính tụng bài kệ sau:
  “Con nay tắm gội chư Như Lai
 Công đức trang nghiêm tịnh trí đầy
 Nguyện cho chúng sanh lìa năm trược
 Mau chứng Như Lai tịnh pháp thân
 Giới, định, tuệ… năm phần hương báu
 Tỏa ngạt ngào trong khắp mười phương
 Khói hương này xin hằng lan mãi
 Phật sự làm vô lượng vô biên
 Nguyện khổ nạn ba đường bặt dứt
 Nhiệt não trừ, an trú thanh lương
 Đồng phát tâm vô thượng Bồ-đề
 Thoát biển ái lên bờ đại giác.”[13]
  Như
 thế nội dung chính của bản kinh trên nói đến công đức của những việc 
xây tháp thờ xá-lợi và tạo tượng Phật, cũng như nghi thức tắm Phật. 
Ngoài báo thân, Đức Phật còn có hai thân khác là pháp thân và ứng hóa 
thân. Do đó, dù Ngài đã thị hiện nhập diệt tại thành Câu-thi-na, nhưng 
sự giao cảm của Ngài với chúng sanh trong nhiều đời sau vẫn tiếp diễn 
bởi pháp thân Ngài siêu việt cả không gian và thời gian. Đức Phật xuất 
hiện trong đời không phải như một vị cứu tinh có đầy đủ uy quyền để ban 
ơn hay giáng họa, mà Ngài là một người như bao nhiêu người khác, một 
chúng sanh như bao chúng sanh khác. Sau khi thành đạo dưới cội bồ-đề, 
Ngài du hóa khắp miền Bắc Ấn với vai trò của một vị thầy tâm linh, rất 
bình dị và cũng rất thánh thiện. Trong cương vị của một vị Đạo sư, một 
đấng giác ngộ, Ngài đã trao truyền những kinh nghiệm sống, tu tập và sự 
thể nghiệm hương vị giải thoát cho hàng đệ tử mình và những ai hữu 
duyên. Trong đạo Phật, nhân tố trọng tâm không phải là đức Phật mà là 
giáo pháp, đây chính là điểm khác biệt giữa Phật giáo với các truyền 
thống tôn giáo khác. Pháp mà Đức Phật đã tuyên thuyết là vô giá, đó là 
phương tiện để đưa đến sự thanh tịnh và an lạc viên mãn trong đời sống 
tâm linh, mà đức Phật và các bậc thánh Tăng là những minh chứng rõ nét 
nhất. Giáo pháp của Đức Phật do vậy cũng có giá trị tương đương với 
xá-lợi của Đức Phật. Như trong bản kinh trên đã đề cập, người Phật tử tỏ
 lòng tôn kính và niệm ân Đức Phật qua việc xây tháp thờ xá lợi, tạo tôn
 tượng để thờ phụng, nhưng sự tôn kính và báo ân như thế sẽ mang ý nghĩa
 chân chính và cao thượng hơn nếu họ biết giữ gìn, hành trì và truyền bá
 Chánh pháp.
  Như
 đã trình bày, nghi thức tắm tượng Phật được mô tả trong bản kinh trên 
là một trong những nét sinh hoạt tự viện tại Ấn Độ mà ngài Nghĩa Tịnh đã
 ghi lại trong ký sự của mình. Cách thức thực hành như thế không phải 
chỉ thuần túy là một nghi thức truyền thống đơn thuần mà còn là một pháp
 môn tu tập của chư Tăng Ni và người Phật tử. Báo thân của Đức Phật đầy 
đủ ba mươi hai tướng tốt và tám mươi vẻ đẹp, tâm Ngài thanh tịnh vô 
nhiễm và nhu nhuyến, pháp thân Ngài thì bất sanh bất diệt, bất cấu bất 
tịnh, cho nên việc tắm Phật là một cơ hội để hành giả thực tập nếp sống 
chánh niệm, trau dồi lòng khiêm cung, hướng tâm nhiệt thành đến Đức 
Phật, hay nói cách khác, hướng đến sự viên mãn của đức hạnh và trí tuệ. 
Những dụng công trên của mỗi người tham dự lễ sẽ là những yếu tố tối 
quan trọng để họ tự chuyển, điều phục và thăng hoa tâm thức của mình. 
Trong biển sanh tử chập chùng, do vô minh sai sử, nên chúng sanh tạo vô 
số oan nghiệp, tâm thức luôn bị vẩn đục bởi những tố chất nhiễm ô của 
phiền não, tà kiến. Do vậy, mỗi khi được tắm Phật, tâm họ được lắng đọng
 trong niềm tôn kính thanh tịnh. Đó là cơ duyên hy hữu để mỗi người gội 
rửa thân tâm, sám hối những lỗi lầm trong bao đời, để từ đây hướng đời 
mình đến sự tịnh hóa ba nghiệp, từ bỏ những niềm vui tầm thường, mong 
manh thế tục để tìm đến niềm an lạc đích thực của tâm hồn.
  Nhưng
 điều độc đáo ở đây là trong khung cảnh của buổi lễ thật trang nghiêm, 
thanh tịnh đó, trong năng lực thành kính của đại chúng trong pháp hội, 
hành giả phát khởi Bồ-đề tâm, đại bi tâm hướng về pháp giới chúng sanh 
với một tâm hồn thanh khiết và thành kính. Đây chính là động lực có một 
sức mạnh kỳ diệu để giúp hành giả an trú vào chân tâm của mình mà khởi 
lên đại nguyện theo gương các bậc hiền nhân. Như thế, từ việc tắm tôn 
tượng Phật, hành giả lại có nhân duyên lớn để gội rửa tâm thức của chính
 mình, hầu trở về với Phật tánh thanh tịnh đang hiện hữu trong mình. Bàn
 về ý nghĩa của việc tắm Phật, ngài Nghĩa Tịnh đã viết rằng: cội gốc của
 sự tôn kính, không gì bằng tôn kính Tam bảo, tu tập quán tưởng, không 
gì bằng quán tưởng Tứ đế, nhưng chân lý thì uyên áo mà phàm tâm thì 
vướng phải nhiều ngoại duyên. Do vậy, nghi thức tắm rửa tôn tượng thật 
thiết thực và thích hợp. Dầu Đức Phật đã nhập diệt nhưng hình tượng Ngài
 vẫn còn, nên phải đối với tượng khởi tâm kính thành như thể Ngài đang 
hiện hữu. Hoặc có người mỗi ngày dùng hương hoa dâng cúng để khởi tâm 
thanh tịnh, lại có người siêng năng tắm rửa tượng để tự gội rửa nghiệp 
chướng hôn mê, dụng tâm thực hành như thế thì tự thân được lợi ích rất 
nhiều, khó mà thấy biết được. Còn như khuyến hóa người khác thực hành 
theo thì bản thân cũng được nhiều công đức và lợi ích[14].
  Là
 một lễ nghi có từ lâu đời và là phần thiết yếu của lễ hội Phật đản, Lễ 
Tắm Phật xuất hiện rất phổ biến trong các nước Phật giáo Nam truyền và 
Bắc truyền. Riêng tại Việt Nam, lễ nghi này thường được tổ chức vào các 
ngày khác nhau, nhưng phổ biến nhất là ngày mồng tám tháng Tư, trong dịp
 Lễ Phật đản mỗi năm. Đại Việt sử ký toàn thư và Đại Việt sử lược đều ghi lại rằng vào ngày mồng tám tháng Tư năm Nhâm Tý (1072), vua Lý Nhân Tông đã dự xem Lễ Tắm Phật [15]. Cũng theo Đại Việt sử ký toàn thư,
 cứ mỗi tháng vào các ngày rằm, mồng một, và đặc biệt ngày mồng tám 
tháng Tư, nhà vua thường đến chùa Diên Hựu để làm lễ cầu phúc, thiết 
nghi tắm Phật[16]. Văn bia tháp Sùng Thiện Diên Linh cũng nói đến việc 
nhà vua tổ chức lễ cầu an và thiết nghi tắm Phật vào các ngày mồng một 
và vào mùa xuân. Như thế, đủ để thấy dưới triều Lý, đặc biệt là dưới 
thời vua Lý Nhân Tông, ngoài lễ Phật đản, lễ tắm Phật cũng được phổ biến
 trong các sinh hoạt của Phật giáo. Lễ Phật đản cũng như lễ tắm Phật 
ngay từ thời Lý không chỉ đơn thuần là một nghi lễ của cộng đồng Phật 
giáo mà nó đã trở thành những sinh hoạt văn hóa chung trong dân gian. 
Điều này được ghi lại trong Lĩnh Nam trích quái như sau: 
“Ngày mồng tám tháng Tư, Man nương tự nhiên mà thác sinh lên trời, linh 
xác gói chôn trong chùa. Nhân dân lấy đó làm ngày sinh của Phật. Hàng 
năm cứ đến ngày này trai gái, già trẻ bốn phương tụ tập về chùa để vui 
chơi, ca múa các trò đàn địch mãi thành tục lệ, gọi là “hội tắm Phật”, 
đến nay lệ vẫn còn.”[17] Sự dung 
hòa giữa văn hóa Phật giáo nói chung và Lễ Tắm Phật nói riêng trong xã 
hội Việt Nam thời xưa đã được Lê Tắc ghi lại trong mục “Phong tục”, phần
 nói về phong tục dân gian của xã hội An Nam trong tác phẩm An Nam chí lược như sau: “Mồng
 tám tháng Tư, mài trầm hương và bạch-đàn-hương, dầm nước tắm rửa tượng 
Phật và dùng thứ bánh giầy mà cúng Phật. Tiết Đoan-Dương (mồng năm tháng
 năm), làm cái nhà gác ở giữa sông, vua ngồi coi đua thuyền. Ngày 
Trung-Nguyên, lập hội Vu-Lan-Bồn, để cúng tế, siêu độ cho người chết, 
tốn hao bao nhiêu cũng không tiếc.”[18]
 Tác phẩm này cho thấy một điều hết sức độc đáo là ngay từ thời Lý-Trần,
 việc dùng các loại hương thơm dầm nước để tắm tượng Phật, đúng như cách
 thức được mô tả trong kinh Công đức tắm Phật như trên đã được 
thực hiện phổ biến trong dân gian. Điều đó cũng đủ cho thấy sự phổ biến 
của nghi thức này trong các sinh hoạt văn hóa bản xứ.
  Trải
 dài theo dòng lịch sử dân tộc, ngày Lễ Phật đản cùng nghi thức Tắm Phật
 đã trở thành một nét sinh hoạt tâm linh cao đẹp trong xã hội Việt Nam. 
Đối với người Phật tử, sự tôn kính, lòng nhiệt thành đối với Đức Phật 
trên nền tảng của chánh kiến mới thực sự mang lại cho họ một niềm tin 
trong sáng và sự an lạc đích thực, lâu dài. Mỗi khi dâng một nén hương, 
một đóa hoa, một phẩm vật lên Đức Phật, hay khi rưới những dòng nước 
tinh khiết lên tôn tượng của Ngài, đó chính là nhân duyên thù thắng để 
mỗi người quay về với chính mình, hầu tự sách tấn, tự trang nghiêm cho 
bản thân bằng hương đức hạnh, bằng hoa trí tuệ, và bằng nước nhẫn nhục, 
từ ái, tùy thuận thích ứng với mọi nhân duyên, ngay cả chướng duyên để 
hướng đến một nếp sống hướng thượng, tỉnh giác. Phải chăng chính những 
lúc đó, mỗi người đang tự tắm Phật trong từng sát-na của đời mình?
    Thích Đồng Thành (Pháp Luân)
            [1].
 H. Nakamura, Gotama Buddha, Tokyo: Kosei Publishing, 2000, p. 66. [2]. 
S. Khosla, The Historical Evolution of the Buddha Legend, New Delhi: 
Intellectual, p. 17. [3]. Sđd. [4]. T3n186, tr. 494a. Theo Thích Ca phổ,
 chi tiết về chín con rồng này được ghi lại trong Đại thiện quyền kinh, 
T50n2040, tr. 5b. [5]. T3n189, tr.625a. [6]. T54n2125, tr.226b. [7]. 
Sđd. [8]. Cao tăng truyện, T50n2059, tr.384c. [9]. T49n2035, tr. 346a. 
[10]. Những quan điểm dị biệt này đã được ngài Huyền Trang ghi lại trong
 Đại đường tây vức ký, TT51n2087, tr.916b. [11]. Tục cao tăng truyện, 
T50n2060, tr.616a. [12]. K. Chen, The Chinese Transformation of 
Buddhism, Princeton: Princeton University Press, 1973, tr.265-266. [13].
 T16n698, tr. 800b-c. [14]. T54n2125, tr. 226b. [15]. Đại Việt sử ký 
toàn thư, Hà Nội: Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam, (bản điện tử: Viện Việt
 Học, Westminster, 2001), tr. 109. Đại Việt sử lược, TP.HCM: NXBTPHCM, 
(bản điện tử: Viện Việt Học, Westminster, 2001), tr. 53. [16]. Đại Việt 
sử ký toàn thư, tr. 115. [17]. Lê Mạnh Thát, Lịch sử Phật giáo Việt Nam 
tập 1, Huế: Nxb Thuận Hóa, 1999, tr. 144. [18]. An Nam chí lược, Huế: 
Viện Đại học Huế, (bản điện tử: Viện Việt Học, Westminster, 2001), tr. 
16