Cách đây hơn 25 thế kỷ, ở tại Bồ-đề
Đạo Tràng (Ấn Độ), Bồ Tát Tất-đạt-đa sau sáu năm tu khổ hạnh và
49 ngày đêm ngồi tĩnh tọa dưới cội Bồ-đề để thể nhập chân lý,
chứng đắc quả vị tối thượng trở thành Phật Thích-ca-mâu-ni. Ánh
đạo vàng Ngài phát huy ra sáng soi vạn loại trải qua bao thiên niên kỷ.
Ngày nay, những người con Phật khắp năm châu đang hướng về Bồ-đề
Đạo Tràng để kỷ niệm ngày Phật Thành Đạo. Sự kiện Phật thành đạo
có ý nghĩa lớn lao đối với Đạo Phật: chính thức xuất hiện vị Giáo
chủ Thích-ca-mâu-ni để dắt dẫn chúng sanh hướng về nẻo giác.
Nhân ngày kỷ niệm Phật thành đạo Phật lịch 2545 và chào mừng
thiên niên kỷ mới, Tăng-Ni, Phật tử hơn lúc nào hết, cần thấu đạt
ý nghĩa Phật thành đạo, xác định rõ con đường Ngài đi, đích Ngài
đến để bày tỏ tâm thành tri ân đối với vị Đạo sư đã sáng soi
chánh đạo, phát sâu chí nguyện đi trọn hành trình này trong kiếp
sống nhân sinh. Hiểu rõ ý nghĩa Phật thành đạo là điều kiện tiên
quyết để tiếp nối bản nguyện của chư Phật mười phương.
Thái tử Tất-đạt-đa thuộc giai cấp Sát-đế-lị,
dòng họ Thích-ca, là con của Vua Tịnh Phạn và Hoàng hậu Maya. Khi
trưởng thành, Thái tử tìm cách thoát ra ngoài bốn bức tường bưng
bít của ngai vàng điện ngọc để cảm nhận thực tế của cuộc sống
đương thời và nỗi khổ lụy chung về sanh, già, bệnh và chết mà mọi
người phải gánh chịu.
Trở về thành Ca-tỳ-la-vệ, dù ngày đêm ở bên
cạnh người vợ hiền thục và kiều diễm bậc nhất, bao bọc bởi tiếng
nhạc du dương cùng sơn hào hải vị của tiệc hội với đám tùy tùng
đại diện thần dân túc trực, hầu hạ, chìu theo; Thái tử vẫn không
sao quên được những nỗi đau buồn nhân thế và vòng quẩn quanh của
kiếp sống. Những quyến rũ của vật dục thường tình không kềm hãm
nỗi một tâm hồn cao cả muốn vươn tới những gì có ý nghĩa hơn, cao
cả hơn, đưa đến hạnh phúc thật sự và nẻo thoát cho mọi loài.
Ngài tâu với Phụ hoàng xin phép rời thành, xuất gia tầm đạo. Vua Tịnh
Phạn ngạc nhiên không hiểu được con mình còn thiếu món gì và đi tìm
kiếm những gì? Thái tử trả lời là đi tìm con đường thoát khỏi
nỗi khổ sanh, già, bệnh, chết và mang đến hạnh phúc lâu bền cho
chúng sanh. Phụ vương không chấp nhận thỉnh cầu này. Cuối cùng
đến năm 29 tuổi, Thái tử lúc đang đêm âm thầm từ giã Phụ vương,
Mẫu hậu, vợ con, Hoàng gia và muôn họ, vượt thành để đi theo
tiếng gọi thiêng liêng của giác ngộ và tầm câu chơn lý.
Khắc khoải với lý tưởng cứu độ chúng sanh, Đạo
sĩ Cù-đàm thấy thất vọng với những mục đích tối hậu của những
đạo sĩ trứ danh nhất thời bấy giờ như Alara Kalama, Uddaka
Ramaputta sau khi Ngài được những bậc thầy đó thừa nhận là đã chứng
đạt được những tầng bậc cao nhất về niềm tin, năng lực, thiền định,
trí tuệ và an lạc mà chỉ có họ và Ngài mới từng kinh nghiệm qua vì
rốt cuộc nếu thoả mãn và dừng lại tại đây cả họ và Ngài rồi cũng
bị trôi lăn trong nẻo luân hồi sanh tử. Nên sau đó, Ngài quyết
định tự mình dấn thân trong một cuộc hành trình vô tiền khoáng
hậu, tìm tòi chân lý nhiệm mầu.
Theo niềm tin phổ biến thời đó, những vị xuất
gia thoát tục cần tu tập khổ hạnh mới chứng đạo quả cao sâu. Hành
giả Cồ Đàm trải qua nhiều phương pháp tu khổ hạnh tột bực được
mô tả trong kinh Mahasaccka Sutta như: nghiến răng, đè lưỡi, tập
trung cắt đứt tư tưởng, nín thở, nhịn ăn, ... và chịu đựng sự bức
bách đau đớn khôn cùng nơi thể xác. Vóc dáng cường tráng, phương phi
của Thái tử Tất-đạt-đa, một thời là hiện thân niềm kiêu hãnh của
kinh thành Ca-tỳ-la-vệ, sau sáu năm tu khổ hạnh chỉ còn lại tấm
thân gầy trơ nắm xương da như ngọn lửa sắp tắt lụn.
Nhận thấy mục tiêu chưa đạt được mà thần chết
đã cận kề nên Ngài quyết định thay đổi phương pháp tu hành, duy
trì tấm thân mình để còn tiếp tục hành trình. Ngài nhận bát vàng
đựng sữa với mật ong dâng cúng của nàng Sujata, con gái của
Nadaca, vợ của trưởng giả Senani để phục hồi sức lực cho giai đoạn
quyết định. Năm anh em Kiều Trần Như nghĩ rằng Ngài đã thối lui hạnh
nguyện nên rời bỏ Ngài đi đến vườn Lộc Uyển tu riêng. Không thối
chí, một mình một bóng, Ngài đến tắm nước sông Ni-Liên-Thuyền, thả
bát vàng xuống sông để xác tín chí nguyện, rồi nhận bó cỏ kiết
tường do một lão nông phu cạnh bờ sông dâng cúng, mang đến Gaya,
nơi gốc cây Tất Bát La trải bó cỏ ngồi thiền và tự phát nguyện
lớn:
"Nếu ta ngồi đây mà không tìm ra đạo lý
nhiệm mầu, không tìm ra lẽ huyền vi của vũ trụ vạn pháp thì dù
thịt nát, xương tan, ta quyết không rời bỏ chỗ này."
Sau 49 ngày đêm thiền định, quán sát không
gián đoạn, vào đêm cuối cùng khi nhìn sao mai mọc, Ngài chiến
thắng tất cả ma quân, tượng trưng cho những tầng lớp vô minh của tâm
thức từ vô thủy, chứng được Lục thông, Tam minh và thành Phật với
danh hiệu Thích-ca-mâu-ni. Cây Tất-Bát-La trở thành cây Bồ-đề (cây
Giác ngộ) và đất xung quanh cây Bồ-đề trở thành thánh địa gọi là
Bồ-đề Đạo Tràng. Năm ấy Ngài 35 tuổi.
Nghiên cứu về lịch sử của Đức Phật, chúng ta
thấy Ngài vừa là con người thật, cụ thể mang tính chất lịch sử
vừa là con người biểu tượng. Ở nơi Ngài luôn chứa đựng những chân
lý sống động, cao sâu. Học Đạo Phật, người Phật tử tiếp cận Thân
giáo, Khẩu giáo và Ý giáo từ Đức Bổn Sư. Nhất cử, nhất động,
nhất niệm, nhất ngôn của Đức Phật đều là những bài học quý giá,
thiết thực muôn đời. Sự kiện quan trọng nhất trong cuộc đời của Đức
Phật, Phật thành đạo, hẳn nhiên để lại cho quần sanh bao ý nghĩa,
diều dụng không thể nghĩ bàn.
Trước hết, Phật thành đạo có ý nghĩa đối với
bản thân Ngài là một thành công viên mãn. Có trải qua biết bao
tháng ngày dài trăn trở quên ăn bỏ ngủ, sáu năm trường khổ hạnh,
công phu nhọc nhằn gạn lọc chân lý cạn sâu, dám hy sinh thân mạng và tất
cả mọi thứ trên đời để tìm tòi mối đạo mới cảm nhận hết giá
trị chói lọi huy hoàng của cái Ngày lịch sử Ngài được suy tôn lên
ngôi Đại Giác. Một niềm an lạc sung mãn thấm đượm nơi Ngài đến nỗi
Ngài trải qua tuần lễ đầu tiên sau khi Thành đạo để chứng nghiệm
hạnh phúc tâm linh giải thoát và chính thức tuyên ngôn đoạn tuyệt
với vòng luân hồi sanh tử khổ đau: "Xuyên qua nhiều kiếp sống
trong vòng luân hồi, Như Lai thênh thang đi đi mãi. Như Lai đi
tìm mãi mà không gặp. Như Lai đi tìm người thợ cất cái nhà này.
Lập đi lập lại đời sống quả là phiền muộn. Này hỡi người thợ làm
nhà, Như Lai đã tìm được ngươi. Từ đây ngươi không còn cất nhà
cho Như Lai nữa. Tất cả sườn nhà đều gãy, cây đòn dông của ngươi
dựng nên cũng bị phá tan. Như Lai đã chứng quả Vô sanh bất diệt
và Như Lai đã tận diệt mọi ái dục."
Phật thành đạo không chỉ là một cuộc chinh
phục vĩ đại, một chiến thắng vẻ vang đối với bản thân Ngài mà còn
là một sự khai sáng tuyệt vời cho hết thảy nhân loại, chúng sanh
vì chí nguyện xuất gia của Ngài là để tìm phương cứu chữa cho
đời sống chúng sanh ngập chìm trong đau thương, tăm tối như chính lời
Ngài phân tỏ với Xa-Nặc lúc chia tay: "Chính vì đêm tối Ta mới đi
tìm ánh sáng." Trong khoảng thời gian 49 năm còn lại của đời
mình, Ngài soi rọi Ánh Đạo Vàng đến khắp muôn phương và hiển thị
rõ ràng rằng: "Nếu cõi đời không đau khổ tối tăm, Đức Phật đã
chẳng xuất hiện ở đời." Ngài ra đời là "Vì an lạc của số đông, vì
hạnh phúc của số đông, vì lòng thương tưởng đối với đời, vì lợi
ích, an lạc và hạnh phúc của chư thiên và loài người" (Tăng Chi
I). Động cơ cao thượng này khiến Ngài cảm thất thất vọng nơi
chứng đắc tối hậu của hai đạo sĩ Alara Kalama và Uddaka Ramaputta
mà bỏ ra đi.
Lời thố lộ tâm sự của Ngài với một chú cừu con
què chân xấu số khi Ngài bế nó theo kịp cừu mẹ đến đàn tràng hy
sinh tế lễ do Vua Tần-bà-sa-la tổ chức trong bước đường Ngài bôn
ba tìm chơn lý phản ánh một tình thương lớn, chí nguyện lớn và
trí tuệ lớn, cung cách ấy chỉ biểu lộ ở bậc thánh nhân: "Dù con
về xa đến đâu, ta cũng sẽ bồng con theo mẹ con đến đấy. Trong lúc
ta chưa tìm ra được phương thuốc để cứu độ toàn thể chúng sanh, thì
ít nữa, ta cũng cứu được một mình con thoát khỏi đau khổ. Vì như thế
còn hơn là ngồi trên núi như những kẻ tu hành kia để tự hành hạ
thân xác và để cầu được thoát khổ với những vị thần bất lực."
Ngài đã khuyên nhà vua đừng giết súc vật để tế thần. Đạo của Ngài
là Đạo cho đời, Đạo của tình thương, đại nguyện của Ngài là cứu
độ toàn thể chúng sanh thoát vòng đau khổ. Đó không phải là một Đạo
đưa đến những sự chứng đắc lửng lơ, không ăn nhập với cuộc sống
con người.
Sự kiện Phật thành đạo càng có ý nghĩa cứu
tinh hơn nữa nếu chúng ta nhìn nhận vào chính ngay trong lòng xã
hội thời Đức Phật. Thời kỳ này nảy sinh quá nhiều tư tưởng gia,
gần một trăm hệ phái thần học, triết học khác nhau. Xã hội thật vô
cùng phức tạp: tình tràng tâm linh con người rất đen tối, sự xáo trộn
về trật tự gia đình, xã hội, tín ngưỡng đã bộc phát một cách mãnh
liệt ở ngay nội tâm và ngoại giới. Con người lúc ấy chỉ còn là
nạn nhân của các thánh kinh và các Đạo giáo. Tình trạng thật bi
đát cho phụ nữ, cho giai cấp thấp bị bóc lột lao động và đối xử
phân biệt, chiến tranh và thống trị diễn ra thường xuyên. Giữa
hoàn cảnh bế tắc ấy, Đức Phật xuất hiện như một mặt trời sáng rỡ
buổi sáng mai xua tan đi những bóng tối của đêm đen dày đặc đang
che phủ cuộc đời. Không tuyên bố chính thức nhưng Ngài thực sự là
một nhà cách mạng xã hội chân chính, mang đến bao nhiêu sự đổi
đời theo chiều hướng tốt đẹp.
Nhìn lại hành trình đã đi qua, chúng ta càng
thấm thía giá trị của tự nỗ lực và thực hành trong Phật giáo. Sự
thành đạo của Ngài là kết quả tự nhiên của tự tu tự chứng chớ
không mảy may chứa đựng bóng mờ của giao cảm với thần linh hay cứu
rỗi. Hình ảnh gầy gò tiều tụy của Ngài trong sáu năm đăng đẳng nời
Khổ hạnh lâm là ấn tượng sâu đậm nhắc nhở chúng ta tinh tiến trên
con đường đã được khai quang bằng phẳng vì:
- "Nếu chẳng bao phen sương buốt lạnh,
- Hoa mai đâu tỏa ngát mùi hương!"
Suốt quãng đời giáo hóa, Ngài không ngớt nhắc
nhở chúng ta qua bao lời dạy nời kinh điển ghi lại: "Các con hãy
tự mình cố gắng, Đức Như Lai chỉ là bậc Đạo Sư," hay "Hãy tự mình
làm hòn đảo, làm nơi nương tựa cho chính mình" và "Hãy tự mình
thắp đuốc lên mà đi." Đạo Phật chú trọng ở thực chứng: nước nóng
lạnh uống vào tự biết chớ không chuyên hý luận suông, sáo rỗng vô
ích hay cuồng tín và cầu nguyện che chở từ quyền uy tột bực của
các đấng siêu nhiên. Con đương đời tranh đua danh lợi đã khó
huống nữa là con đường "Nghịch lưu" cắt đứt dòng triền miên của
sự sanh tử luân hồi đưa đến giải thoát tối hậu? Mỗi người Phật tử
phải là một hành giả, một chiến sĩ trung kiên trên chiến trường
thầm lặng vì chính những vô minh phiền não nơi bản thân ta là
những kẻ thù nguy hiểm nhất và: "Chiến thắng vẻ vang nhất là tự
thắng được lòng mình."
Một bài học mà Đức Phật suýt nữa phải trả giá
bằng chính cái sinh mạng của mình mới nhận được và Ngài dạy lại
thật ấn tượng ngay lời mở đầu của kinh Chuyển pháp luân cho năm
anh em Kiều-trần-như, những người đã từng là bạn đạo đồng hành,
chia xẻ cực nhọc tột bực với Ngài trên đỉnh Tuyết sơn, là: "Có
hai tuyệt lộ mà người tìm chơn lý không nên theo. Hai tuyệt lộ ấy
là những gì? Ấy là con đường buông lung theo dục lạc thấp hèn bất
tịnh, không phù hợp với mục đích, và con đường khổ hạnh ép xác
không sáng suốt, không phù hợp với mục đích. Không theo hai đường ấy,
người tìm chơn lý giữ theo Trung Đạo, con đường đưa đến tuệ giác,
đến tri kiến, đến sự tỉnh thức, Niết-bàn ... Ấy chính là con đường
cao cả của Bát chánh đạo ..." Đó là con đường của Giới, Định,
Tuệ và Lục độ ba la mật. Như một dây đàn không quá chùn hay quá
căng sẽ phát ra những âm thanh du dương, vi diệu, sự tu tập cần
phải tránh hai cực đoan: lợi dưỡng, thọ hưởng, trụy lạc với vật
dục và ép xác, cưỡng bức quy luật phát triển tự nhiên, tham cầu
chứng quả tức khắc. Phật tử phải là người cảm nhận an lạc, giải
thoát, thăng hoa trong từng bước chân, từng hơi thở của cuộc sống
hàng ngày. Bình thường tâm thị đạo.
Quan trọng hơn hết là chúng ta phải nhận chân
được sự thành đạo chẳng qua là một sự trở về. Thực ra Đức Phật đã
không vươn đến một ngôi vị cao xa, hay nắm bắt trong tay một đối
tượng đặc biệt làm dấu ấn cho riêng mình mà đó là sự hiển lộ của
gương sáng tự tâm sau khi bụi mờ vô minh đã tiêu tan. Sau này,
Ngài dạy tất cả chúng sinh đều có: Phật tánh, Niết-bàn tự tánh, Viên
giác diệu tâm, Chân như thật tánh, Bản lai diện mục, Như lai tạng
... Chúng ta mãi trầm luân sanh tử vì chúng ta như những cùng tử
mang viên ngọc trong chéo áo mà không hề hay biết để đi lang
thang, "bụi đời" khắp trong thiên hạ. Đó cũng là ý nghĩa mà Ngài
dạy trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương: "Tu nhi vô tu, hành nhi vô
hành, chứng nhi vô chứng." Nếu có ai đó trong chúng ta cảm thấy
sự dị thường, vượt trội chấp nhặt và hãnh diện nơi sở đắc thì nên
tự xem xét lại sự tu tập của chính mình.
Trong lịch sử nhân loại, chúng ta chưa hề thấy
ai đã từng đề cao tinh thần bình đẳng như Ngài. Ngài bức xúc và
chấn động tinh thần cao độ khi nhìn thấy mồ hôi nông phu trên
luống cày và sự sống được đắp bồi bằng cái chết của sinh vật khác
trong ngày lễ Hạ điền. Ngài kinh ngạc khi nhìn thấy nỗi khổ của
kiếp nhân sinh ngoài thành và dừng xe lại hỏi Xa-nặc trước những cảnh
tượng oái oăm mà ai cũng đều cho là bình thường, hiển nhiên trong
đời sống: Cái gì vậy? Ai vậy? Có phải là người không? Ta có như
vậy không? ... Có lẽ nếu mọi người đều đầy đủ tiện nghi để được
hạnh phúc như Thái tử Tất-đạt-đa thì Ngài đã không băn khoăn trăn
trở đi tìm lối thoát làm gì? Cử chỉ yêu thương vuốt ve, chăm sóc
của Ngài với các sinh vật bé nhỏ như chim bồ câu bị bắn cung,
cừu con sắp bị giết để tế lễ là bài học về tính không sát hại,
tôn trọng mạng sống và bình đẳng trong Phật giáo.
Trên tất cả là Ngài đồng hóa địa vị của một vị
giáo chủ với môn đồ trong lời dạy quan trọng bậc nhất mà Ngài
từng để lại: "Ta là Phật đã thành, các ngươi là Phật sẽ thành."
Kinh Pháp Hoa, phẩm Thọ ký và Thường Bất Khinh Bồ tát lại tiếp
tục hình tượng hóa lời dạy này. Cảm hứng cho chân lý ấy hẳn là
những hình ảnh hoa sen thấp cao khác nhau, vươn trong hồ nước nhưng
không vướng bùn nhơ hiện ra trong tâm trí Đức Phật giống như Phật
tánh sẵn có nơi mỗi chúng sanh mà ngày nay chúng ta còn thấy hồ
sen kỷ niệm bên phải Bồ-đề Đạo Tràng, để rồi Ngài quyết định
thuyết pháp cao siêu nhiệm mầu đến với chúng sanh. Cánh cửa giải
thoát đã mở ra cho tất cả chúng sanh. Phật tánh bình đẳng là cơ
sở quan trọng để sau này Ngài thâu nhận một cách rộng rãi mọi
tầng lớp trong xã hội: thiếu niên, kẻ phạm tội giết người, phụ
nữ, kỷ nữ, người bần tiện, ngoại đạo, hoàng tộc ... vào trong
giáo đoàn. Thật vĩ đại biết dường nào khi chúng ta nhìn thấy xã
hội Ấn Độ ngày nay còn nặng đầu óc phân biệt giai cấp mà ngay từ
thời tiền sử ấy, Đức Phật đã lên tiếng kêu gọi xóa bỏ giai cấp:
"Tình thương là sợi dây liên lạc giữa người với người, không có
giai cấp trong dòng máu cùng đỏ, trong nước mắt cùng măn. Một
người sinh ra không ai mang sẵn từ trong thai vòng dây ở cổ hay
dấu Ti-ca trên trán." Đức Phật đã đòi quyền làm người, nêu cao
nhân phẩm mọi người. Sự việc Ngài đã cởi bỏ áo gấm tột bực cao
sang của một Thái tử để khoác lên mình y bá nạp, cầm bát đi khất thực
tân hang cùng, ngõ hẻm của đời sống là một sự hòa hợp lớn lao,
thoát xác vĩ đại. Ngài là nhân tố tích cực quyết định trong việc cải
sửa cái thành kiến khinh thường của vua Tịnh Phạn, đại diện cho
tầng lớp cao quý nhất thời bấy giờ, đối với những người đi "xin
ăn" này. Tất cả chỉ vì do đầu óc tham lam, muốn bóc lột và tự đề
cao mình của con người mà nảy sinh ra hàng rào ngăn cách phân biệt
trong quan hệ giữa người và người. Con người nên sống trong sự
bình đẳng, hòa ái, tương trợ để hạnh phúc và giải thoát.
Đức Phật thành đạo là một bằng chứng xác đáng
nhất cho chân lý: Niết-bàn tại thế hay: "Phiền não tức bồ đề,
sanh tử tức Niết-bàn." Mọi người khỏi phải chờ đợi đến kiếp nào
khác để đạt được quả vị tối cao và dừng công cuộc tìm kiếm vô bổ
đến một Thiên đường, Niết-bàn xa xôi, huyền diệu. Hoa sen
Niết-bàn nở ngay trong vũng bùn lầy thế gian nhơ nhớp, ô trược.
Phật ra đời ngay trong lòng thế gian đau khổ và lìa chúng sanh là không
có Phật. Cũng một con đường ấy nhưng mê là chúng sanh, ngộ là
Phật. Với phàm phu, cõi đời này đầy rẫy ma chướng, ngũ trược ác
thế nhưng với thánh nhân đây là bảo sở, là Phật quốc trang
nghiêm, nghĩa là: Tâm tịnh, Phật độ tịnh. Chúng sanh mê mờ nên bị
"Trần sử," gây tạo thêm nhiều nghiệp chướng, xấu ác; góp phần
tạo nên thế giới khổ đau, u tối nhưng bậc giác ngộ lại "Sử trần"
chuyển hóa và thăng hoa cuộc đời.
Có một số học giả lại nghi ngại rằng: quả thật
đối với hết thảy nhân loại và chúng sanh, Đức Phật tu hành thành
đạo trở thành một đấng Đạo sư đáng tôn kính, nhưng đối với Phụ
mẫu, vợ con, hoàng tộc và xã tắc, Ngài chưa hoàn thành trách
nhiệm chăng? Xin thưa rằng: Không!!! Ngài là con người toàn hảo về giá
trị luân lý và đạo đức.
Với Hoàng tộc, Ngài đã là một Thái tử xứng
đáng, văn võ toàn tài, xuất chúng. Với Phụ mẫu Ngài là người con
chí hiếu: chấp nhận lấy vợ và sinh con để có người nối dõi trước
khi Ngài quyết định xuất gia dù biết trước làm như vậy là gây
thêm khó khăn trở ngại cho Ngài vì ân ái buộc ràng. Sau này, Ngài thuyết
pháp khiến Tịnh Phạn Vương đạt đến thành quả thứ ba trước khi
băng hà. Ngài còn đích thân khiêng quan tài của vua cha.
Ngài đã bao phen lên cung trời Đao Lợi thuyết
pháp cho mẹ, tiên nữ Maya. Khi đã nhập Niết-bàn, Ngài còn bật nắp
kim quan để cho mẹ mình chiêm ngưỡng một phần tấm thân do cha mẹ
đã tạo ra trong kiếp người lần cuối trước khi thi thể Ngài được hỏa
táng tại Câu-thi-na. Dì Mẫu Ma-ha Ba-xà-ba-đề được chấp nhận vào
giáo đoàn dù Ngài biết trước rằng có những khó khăn phức tạp xảy
ra khi chấp nhận nữ giới vào dòng thánh. Với vợ từ khi thành hôn,
Ngài đã bao phen tâm sự, an ủi và gián tiếp báo trước rằng Ngài
sẽ xuất gia một ngày không xa để mong nàng thông cảm, chấp nhận
sự hy sinh, vắng bóng người chồng và nhờ đó nàng đã chịu đựng
được sự đơn độc nhiều năm liền. Ngay trong đêm cuối cùng trước
khi thành đạo, một lần nữa hình ảnh của công chúa Da-du-đà-la lại
hiện ra vẫy gọi Ngài quay về với đời sống thế tục, điều đó chứng
tỏ Ngài khó lòng quên được tình nghĩa, đời sống thủy chung và cố
gắng lắm mới thoát khỏi vòng ân ái tục lụy. Khi thành đạo quay
về thành Ca-tỳ-la-vệ, Ngài đã để cho Da-du-đà-la biểu lộ tình cảm
tự nhiên theo ý thích của nàng du bao người lo lắng là làm như
vậy sẽ tổn thương uy tín và suy giảm lòng tôn kính đối với một vị
giáo chủ. Không lâu sau đó, Ngài chấp nhận cho Da-du-đà-la cùng Dì Mẫu
thành lập Giáo đoàn Ni. Còn với con mình, Ngài sẵn sàng để cho
con tự quyết định đời mình và chia gia tài theo ý con thích. Ngài
chấp nhận thỉnh cầu của La-hầu-la, thâu nhận vào hàng thánh
chúng. Vậy cả gia đình Ngài và Hoàng tộc đều có dự phần lợi lạc
giải thoát: Tịnh Phạn Vương là vị Ưu-bà-tắc đầu tiên được chứng
quả A-Na-Hàm, Tiên nữ Ma-Gia là vị đầu tiên được Phật thuyết pháp
ngay chính thiên cung, Dì Mẫu và công nương Da-du-đà-la là phụ
nữ đầu tiên được Ngài chấp nhận vào Giáo Hội và La-hầu-la là vị
thiếu niên đầu tiên trở thành Sa-di và sau này là một trong thập
đại đệ tử của Phật. Nhiều vị trong hoàng tộc theo bước chân của
Ngài xuất gia đắc quả. Ngài đã bao phen ngăn cản nghiệp chướng
chung của dòng họ Thích về thảm họa tiêu diệt nhưng rốt cuộc đành
chịu thua trước tai họa "Lưu Ly Vương." Ngài đã dạy mọi người bỏ
đi cái ân ái, hệ lụy thường tình để đi đến tình thương rộng rãi
đại đồng hơn cùng vạn loại và xóa bỏ đi cái ranh giới hẹp hòi của
quốc gia, xã tắc vì nó là mầm mống của chiến tranh, xung đột,
hãy nghĩ đến các nước láng giềng và cộng đồng người. Bao quy tắc luân
lý được Ngài thiết đặt sau này cho quan hệ tốt đẹp giữa người và
người cũng như bao giới luật mà Ngài chế định là nền tảng luân lý
đạo đức cho một xã hội phồn vinh, hạnh phúc.
Đặc biệt Phật thành đạo là sự kiện đề cao giá
trị nhân bản. Phật chứng quả ngay trong kiếp người, Phật là người
giác ngộ; điều đó chứng tỏ con người có địa vị tối ưu để trở
thành Phật như kinh Hoa Nghiêm dạy: "Nhân thị tối thắng, năng
sinh nhất thiết chư thiện pháp cố." Được làm thân người là rất
quý báu, khó khăn. Trong khi bao đạo giáo khác dạy con người phải
hướng đến thần linh, phải trút bỏ đi kiếp người lỡ vướng mang, thì
Đức Phật đã trả lại giá trị đích thực của kiếp người. Ngài là một
bậc siêu nhân hơn tất cả mọi thần thánh mà loài người từng biết tới
nhưng Ngài cũng mang một trái tim rất người. Ngài lấy con người
làm cứu cánh để giải quyết hết mọi vấn đề bế tắc của thời đại, cả
về nhân giới, tâm giới và siêu giới. Con người tự chịu trách
nhiệm đối với cá nhân mình và hạnh phúc của chính mình chứ không
có vấn đề ban phúc giáng họa từ một đấng tối cao. Đức Phật đã
mang đến niềm tin, trí tuệ và giải thoát cho con người. Ảnh dụ
"Người cùng tử" trong kinh Pháp Hoa là Đức Phật nhắc con người
đừng đánh mất chính mình, hãy tìm và trở về với con người thật
nơi chính mình. Đừng rồ dại vọng cầu nơi khác.
Một vấn đề mang tính chất thời đại mà nhân
loại quan tâm là: bảo vệ môi trường sống. Đức Phật đã là chiến sĩ
xung phong trên lãnh vực này. Ngài ra đời nơi một cành cây trong
vườn Lâm-tỳ-ni, xuất gia tu học trên Khổ Hạnh Lâm, gắn bó với
Sông Ni-liên-thuyền và ngồi thiền định trên bó cỏ, chứng quả dưới cội
Bồ-đề khi sao mai vừa mới mọc. Sau đó Ngài chuyển pháp luân ở Vườn
Lộc Uyển, an cư kiết hạ nhiều năm nơi làng mạc, rừng núi và cuối
cùng Ngài Thị Tịch trên vùng Câu-thi-na còn hoang sơ thuở ấy.
Ngài trải rộng tình thương đến tất cả mọi loài. Có lẽ do ảnh
hưởng lớn của tinh thần tôn trọng sự sống nơi Ngài mà quan hệ
giữa người và vật ở Ấn Độ rất thân thiện và xứ Phật còn có nhiều
rừng nguyên sinh và số lượng cỏ cây, thú vật rất phong phú. Ngài
sông hòa lẫn với thiên nhiên, thiên về những vẻ đẹp nơi bản chất
tự nhiên chưa có bàn tay con người làm méo mó, dị dạng, lệch lạc
đi. Tiếc rằng số lượng lớn nhân loại chưa chịu học tập và thực
hành đầy đủ theo lời dạy của Ngài nên môi trường sống của chúng
ta càng ngày càng tệ hại hơn và đưa đến sự khủng hoảng đến mức độ
báo động về sự hủy hoại cuộc sống.
Phật thành đạo còn mang một ý nghĩa căn bản
cho việc thiết lập một nền giáo dục toàn diện. Nền giáo dục cần
phải đặt trên nền tảng của chuyển hóa, hướng thượng tinh thần,
tâm thức con người. Tâm là chủ quyết định cho mọi hành động của
con người. Con người là chủ thể xã hội. Vậy một nền giáo dục đích
thực phải bắt đầu từ việc cải tạo tâm. Bao cuộc cách mạng xã hội
đã thất bại vì chính những người làm cách mạng muốn chinh phục
thiên nhiên, chinh phục xã hội trong khi chưa làm chủ được tâm mình.
Kinh nghiệm phong phú, quý giá và thực tiễn trong việc chế ngự và
điều phục, quy hướng tâm và hiển lộ chơn tâm xuyên suốt quá
trình 35 năm suy tư và 6 năm thiền định của Đức Phật, kho tàng
giáo lý trong 49 năm thuyết pháp đều nhằm hướng đạo có hiệu quả
cho mọi người tu tập đối trị tám vạn bốn ngàn hay vô lượng phiền
não phát khởi từ nơi vọng tâm của con người. Đổi mới tư duy là
yếu tố quyết định cho mọi công cuộc đổi mới. Chúng ta cũng nên dè
dặt, cảnh giác trong mọi sự trá hình, lẩn khuất và ngụy biện của
tà tâm và ma đạo. Đạo Phật với tinh thần vô ngã, vị tha, tứ vô
lượng tâm, lục độ ba la mật sẽ cung cấp chất liệu tích cực cho sự
nghiệp giáo dục và đưa xã hội loài người hướng đến Chân-Thiện-Mỹ
và hiển lộ Niết-bàn tại thế.
Ngày nay, văn minh nhân loại đã vươn đến đỉnh
cao, bao nhiêu nhà khoa học đã được cấp những bằng phát minh và
đạt được giải thưởng danh dự nhưng thử hỏi xã hội loài người
chúng ta đã thực sự yên vui hạnh phúc chưa? Đọc một trang báo, nghe một
mẫu tin trên đài, thoáng nhìn vào màn ảnh ti vi là chúng ta thấy
đầy dẫy những tệ nạn xã hội và nỗi đau khổ nhức nhối mà loài
người còn đang gánh chịu: chiến tranh giữa các quốc gia, kỳ thị
tôn giáo, sắc tộc, bệnh hoạn, thiên tai, môi trường sống trở nên
khô cằn đang hủy diệt dần, buôn lậu, tệ nạn tham nhũng, quan
liêu, bóc lột, tệ nạn xã hội, biểu hiện văn đồi trụy nhan nhãn,
bao nhiêu người bế tắc tự tử ... Vậy những phát minh, tiến bộ ấy
về khoa học kỹ thuật đã giúp cho loài người được bao nhiêu? Tỉ số
phần trăm của những người trên hành tinh này được hạnh phúc là
bao nhiêu? Hai cuộc chiến tranh thế giới xảy ra trong thế kỷ vừa
qua, hai quả bom nguyên tử nổ tung nơi 2 thành phố Nhật Bản
Hiroshima và Nagasaka, bao chất độc màu da cam và bom mìn trong
lòng đất hủy hoại thế giới khủng khiếp còn tệ hơn tất cả những
cuộc chiến tranh phá hoại sự sống từ thời nguyên thủy đến thế kỷ
xx. Chính lòng tham lam, ích kỷ, sân hận và si mê của loài người đang
tiêu diệt con người. Có một số nền văn minh mới đã sản sinh ra
những con người muốn thâu tóm cả thế gian vào lòng mình, nhẫn tâm
giẫm lên nỗi thương đau của bao người khác và bất chấp mọi thứ
hậu quả nghiêm trọng nào sẽ xảy ra cho thế giới này. Thử nhìn một
số nước, chúng ta ngậm ngùi khi bao nhiêu cuộc chạy đua, cạnh
tranh sinh tồn đã làm cho xã hội nhân loại xáo trộn. Văn minh Tây
phương hiện đại đã làm mọi giá trị đảo lộn, chỉ còn một giá trị
duy nhất được tôn thờ là vật chất, hiệu quả sản xuất, khối lượng
hàng hóa. Con người càng ngày càng lún sâu vào sự nô lệ của vật
dục và sống một cuộc sống tâm hồn khô cằn, trống vắng, đơn điệu,
nhàm chán. Thời đại công nghiệp đã quay cuồng mọi người trong
nhịp độ sống khẩn trương đến mức có những người không còn có phút
giây dừng lại để suy nghĩ trước khi hành động. Nhân loại có còn
tồn tại không nếu một quả bom nguyên tử thứ ba bùng nổ.
Một điều thật trớ trêu là trong khi văn minh,
khoa học kỹ thuật phát triển cao đến mây xanh thì văn hóa tâm
linh của con người lại lún xuống bùn sâu. Nhân loại đang ở trong thế
lựa chọn: thay đổi để tồn tại hay mặc nhiên chấp nhận sự diệt
vong. Vậy nhân ngày Phật thành đạo này, nhân loại hãy dừng lại một
phút giây để nhớ đến Ngài, học hỏi từ sự thành đạo của Ngài để
tìm ra giải pháp thiết thực cho những khủng hoảng thời đại. Đức Phật
xuất hiện vì con người còn đau khổ. Ánh sáng chơn lý của Ngài vượt
thời gian, không gian sáng soi khắp vũ trụ thiên thu bất diệt vì
Ngài luôn quan tâm đến vấn đề muôn thuở của con người. Chính vô
minh và tham ái là kẻ thù độc hại nhất của loài người. Câu nói
của Cố Thủ Tướng Ấn Độ Jawaharlaf Nerhu là lời nhắc nhở canh cánh
bên tai chúng ta khi Ông kêu gọi con người hiện đại hãy quay về
với những chân lý mà Đức Phật Thích-ca đã phát hiện và tuyên bố
với nhân loại cách đây hơn 2500 tại Ấn Độ:
"Chúng ta sống trong một kỷ nguyên xung đột
và chiến tranh, hận thù và bạo lực ở khắp mọi nơi trên thế
giới. Tất cả chúng ta cần thiết hơn bao giờ hết, phải nhớ lại
bức thông điệp bất hủ của Đức Phật, người con vĩ đại nhất và
cao cả nhất của xứ Ấn Độ, đã gởi đến chúng ta, đến các vị, đến
tất cả mọi người trên thế giới. Bức thông điệp tuyên bố cách đây
hơn 2500 năm, hiện nay vẫn sống động, vang động mãi trong tâm khảm
chúng ta, cho chúng ta nguồn cảm hứng để đối phó với mọi khó khăn
và rối ren, đang đe dọa tràn ngập làm chìm đắm chúng ta."
Cùng với ý nghĩa ấy, cựu Tổng Thống Ấn Độ,
tiến sĩ Radhakrishna cũng tuyên bố trước sự hiện diện 60 học giả
danh tiếng thế giới trong cuộc hội thảo tại Tân Đề Ly, năm 1956:
"Khoa học đã mang lại cho nhân loại nhiều
quyền lực đến nỗi họ có thể tự phá hủy đời sống của mình, cho
nên có thể nói rằng, nếu không vun trồng cho mình những đức tánh
từ bi, bất bạo động thì loài người hủy hoại tất cả, hủy hoại hạnh
phúc mình và chính bản thân mình nữa."
Vậy hơn lúc nào hết, ngày nay cả nhân loại cần
phải hướng về trong Ánh từ quang lan tỏa từ khi Phật thành đạo
dưới cội cây Bồ Đề.
Hơn 25 thế kỷ trôi qua, thế giới đã trải qua
bao cuộc đổi thay. Hôm nay chúng ta đến đây thì: núi vẫn là núi,
sông vẫn là sông, khác một điều là chúng ta đã có ngôi chùa Việt
Nam trên đất Phật. Chúng ta đang thừa hưởng gia tài của Đấng Từ Phụ
để lại. Nhớ đến công lao khó nhọc Ngài đã tìm ra Ánh Đạo Vàng sáng
soi muôn loại, chúng ta không phải kỷ niệm Phật thành đạo trong một
ngày, một giờ là đủ mà cần chuyển hiện, khơi nguồn sáng đó vào
đời sống, vào thời đại từng giây, từng khắc, từng sát na, từng
hơi thở đời mình. Công đức Ngài là vô lượng, vô biên, sự thành
đạo của Ngài là cao quý, hy hữu như hoa Ưu-đàm-tất-la trăm ngàn
năm mới nở một lần thì chúng ta khó có thể hiểu biết và bàn trọn
vẹn về ý nghĩa của sự Thành đạo của Ngài. Chúng ta đang lần theo
dấu vết hành trình Ngài và những kỷ niệm nơi Sông Ni-liên ngàn
năm vẫn rì rào tâm sự, ngọn Tuyết Sơn trơ gan cùng tuế nguyệt,
cây Bồ-đề thiêng liêng che chở tinh thần bao người chiêm bái,
Tháp Đại Giác sừng sững uy nghiêm như bảo sở và Phật quốc giữa
lòng nhân loại và hình tượng từ bi trí tuệ Ngài đang ngự nơi chánh
điện và hỷ lạc trước sự trở về của những đứa con lạc loài bao năm
tháng sẽ là hành trang tâm linh vô giá cho những người con Phật trên
hành trình tu học. Chúng ta đang từng bước đến gần Ngài để tìm
được phút giây hòa hợp trọn vẹn trong nền giao cảm với Ngài, với
cây Bồ-đề và với thể tánh nhất như.
Nalanda,
Hướng đến ngày Phật Thành Đạo
Thích Nữ Liên Chương