- Điểm Đến Chí Thiện
Sau 
những ngày từ bỏ vương cung, cạo bỏ râu tóc, mặc áo hoại sắc, làm người xuất gia, 
Thế Tôn nói: “Mặc dù cha mẹ không bằng lòng, than khóc nước mắt đầy mặt, ta vẫn 
cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống đời sống thoát ly 
gia đình. Ta xuất gia như vậy, kẻ đi tìm cái gì chí thiện, đi tìm con đường vô 
thượng tối thắng, hướng đến tịch tịnh”.[1]
 
Như vậy, điểm cùng đích mà khi xuất gia Thế Tôn hướng tới là điểm chí thiện.
Cùng đích của chí thiện là Diệt đế tức là Niết-bàn hay tịch tịnh tuyệt đối. Vì sao? Vì nó là đời sống không còn bị sanh, 
già, bệnh, chết chi phối. Cùng đích của chí thiện là vô sanh, bất diệt, nơi không còn bất cứ 
một bóng dáng nào của tham dục và ngã tưởng.
 
- 
Đường Lớn Mở Ra
 
Thế 
Tôn đã đi đến cùng đích của chí thiện bằng con đường nào? Bằng con đường Thánh 
đạo tám chi.
 
Do đi 
trên cao đường nầy, Thế Tôn đã vượt ra khỏi hai cực đoan là khổ hạnh ép xác và 
buông lung trong các dục. Sống với đời sống ép xác khổ hạnh, khiến con người có 
cái nhìn lãnh cảm với cuộc đời và hờ hững với những gì đang hiện hữu; và sống 
với tâm buông lung trong các dục, khiến cho con người quá nhiệt tình với các nhu 
cầu của lòng tham, nên bị mù quáng và chết điếng bởi nó.
 
Nên, 
Thánh đạo tám chi, con đường vượt ra khỏi hai cực đoan ấy, để đi đến cùng đích 
của chí thiện và Thế Tôn đã đi đến cùng đích ấy bằng con đường nầy.
 
Vì 
vậy, đức Thế Tôn nói: “Nầy các Tỳ-kheo! Quý vị tu tập, cần phải từ bỏ hai cực đoan ấy. Tôi sẽ nói cho 
quý vị biết về con đường Trung đạo, quý vị phải hết lòng nghe, ghi nhớ và nỗ lực 
thực hành!
 
Thế 
nào là con đường Trung đạo? Đó là Chánh kiến, Chánh tư duy, 
Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.
Con đường đủ tám yếu tố như vậy, gọi là Trung đạo. Đây là con đường đi tới an 
lạc, trí tuệ,giác ngộ và Niết-bàn”. [2]
 
Như 
vậy, Thế Tôn thành đạo là do Ngài đã tự mình đi trên con đường nầy và con đường 
lớn đã mở ra, dẫn Ngài đến chỗ an lạc chí thiện, trí tuệ minh triệt, giác ngộ 
tối thượng và Niết-bàn tuyệt đối.
 
- 
Đoạn Trừ Lậu Hoặc Và Chứng Tam Minh
 
Thế 
Tôn đoạn trừ các lậu hoặc bằng con đường nào? Bằng con đường thiền quán với sự 
có mặt của Chánh tư duy, sau khi đã đi qua hỷ lạc, do các loại thiền định từ Sơ 
thiền đến Tứ thiền đem lại, Ngài dừng lại ở nơi Tứ thiền, với tâm thuần tịnh, 
không còn các bóng dáng của khổ thọ, lạc thọ, ưu thọ, hỷ thọ và niệm tưởng, và 
bấy giờ Ngài đi vào thiền quán, lấy “lão tử” làm đối tượng tư duy để thấy rõ 
“sanh”; lấy “sanh” làm đối tượng tư duy để thấy rõ “hữu”; lấy “hữu” làm đối 
tượng tư duy để thấy rõ “thủ”; lấy “thủ” làm đối tượng tư duy để thấy rõ “ái’; 
lấy “ái” làm đối tượng tư duy để thấy rõ “thọ”; lấy “thọ” làm đối tượng tư duy 
để thấy rõ “xúc”; lấy “xúc” làm đối tượng tư duy để thấy rõ “lục nhập”; lấy “lục 
nhập” làm đối tượng tư duy để thấy rõ “danh sắc”; lấy “danh sắc” làm đối tượng 
tư duy để thấy rõ “thức”; lấy “thức” làm đối tượng tư duy để thấy rõ “hành”; lấy 
“hành” làm đối tượng tư duy để thấy rõ “vô minh”; lấy “vô minh” làm đối tượng tư 
duy để thấy rõ “vô minh” diệt, thì “hành” diệt; “hành” diệt, thì “thức” diệt; 
“thức” diệt, thì “danh sắc” diệt; “danh sắc” diệt, thì “lục nhập” diệt; “lục 
nhập” diệt, thì “xúc” diệt; “xúc” diệt, thì “thọ” diệt; “thọ” diệt, thì “ái” 
diệt; “ái” diệt, thì “thủ” diệt; “thủ” diệt, thì “hữu” diệt; “hữu” diệt, thì 
“sanh” diệt; “sanh” diệt, thì “lão tử” diệt.
 
Sau 
khi đã tư duy và thấy rõ như vậy, Ngài liền thấy và biết một cách như thật rằng, 
chính “ái, thủ và hữu” là tác nhân và tác duyên hiện tại để “sanh lão tử” có 
mặt; và “vô minh, hành” là tác nhân, tác duyên quá khứ để cho “thức, danh sắc, 
lục nhập, xúc và thọ” có mặt, và toàn bộ “khổ uẩn” đời nầy và đời sau có mặt, 
nên Ngài đã dùng năng lực của Giới, Định và Tuệ hay các yếu tố trợ đạo và chánh 
đạo, để chặt đứt “ái, thủ và hữu”; chặt đứt “vô minh và hành”, khiến các lậu 
hoặc đều dứt sạch; và bằng tuệ giác, Ngài đã soi chiếu vào tự thân, thấy rõ nhân 
duyên của mình, từ một kiếp, hai kiếp cho đến vô lượng kiếp, trong quá khứ với 
tên như vậy, với dòng họ như vậy, với cha mẹ như vậy, với quốc độ như vậy, với 
hành nghiệp như vậy... với sự thấy rõ như vậy,gọi là Túc mạng minh. 
Ngài đã chứng minh nầy, cuối canh một của đêm Thành đạo.
 
Tiếp 
tục thiền quán, Ngài dùng tuệ giác để soi chiếu nhân duyên và nghiệp quả của 
chúng sanh, Ngài đã thấy rõ nhân duyên và nghiệp quả của những loài chúng sanh 
sinh ra từ sự ẩm ước; từ trứng; từ
thai; và từ sự biến hóa. Sự thấy rõ như vậy, gọi là Thiên nhãn minh. 
Ngài chứng minh nầy vào cuối canh hai của đêm Thành đạo.
 
Ngài 
vừa chứng Thiên nhãn minh, thì ngay lúc ấy, sấm sét nổ
tung vang trời, mưa bắt đầu tuôn xuống xối xả. Nhưng 
Ngài vẫn điềm nhiến bất động, dẫn tâm hướng đến Lậu tận trí và biết đúng như 
thật: đây là khổ; đây là tập khởi của khổ; đây là sự vắng mặt của khổ; và đây là 
con đường chấm dứt sự khổ.
 
Sau 
khi đã có Chánh kiến như vậy rồi, Ngài lại tiếp tục quán chiếu để thấy rõ:
 
“Đây là những ước muốn mê lầm. Đây là những kiến thức mê lầm.
Đây là những mê lầm do vô minh.
 
Đây là nguyên nhân của sự ước muốn mê lầm. Đây là nguyên nhân của những kiến thức mê lầm. Đây là nguyên 
nhân của sự mê lầm do vô minh.
 
Đây là sự vắng mặt của những nguyên nhân mê lầm. Đây là vắng mặt nguyên nhân của những kiến thức mê lầm. 
Đây là sự vắng mặt của những nguyên nhân sinh khởi vô minh.
 
Đây 
là con đường đưa đến sự diệt tận những ước muốn mê lầm. Đây là con đường đưa đến 
sự diệt tận những kiến thức mê lầm. Đây là con đường đưa đến sự diệt tận những 
mê lầm do vô minh”.
 
Bằng 
con đường thiền quán, soi rọi tâm thức như thế, Ngài đã loại trừ hết thảy dục 
lậu, hữu lậu, vô minh lậu. Ngài tự biết mình đã giải thoát hoàn toàn, không còn 
bị ràng buộc bởi bất cứ lậu hoặc nào và tự tuyên bố:
 
“Sanh đã tận, phạm hạnh đã thành, việc đáng làm đã làm xong, vĩnh viễn không còn 
tái sanh nữa”.
 
Với Chánh kiến đối với các lậu hoặc ở nơi tự tâm như vậy, gọi là Lậu tận minh. Ngài đã chứng được minh nầy, vào cuối canh ba của đêm Thành đạo.
 
Cùng 
ngay lúc ấy, Ngài quán chiếu, thấy rõ mọi nhân duyên của hết thảy mọi ngôn ngữ 
và âm thanh, nên Ngài đã chứng Thiên nhĩ thông. 
Tiếp tục thiền quán, Ngài chứng được Tha tâm thông, biết rõ tâm của hết thảy 
chúng sanh. Và ngay sau đó, Ngài chứng luôn Thần túc 
thông, không còn bất cứ một chướng ngại nào đối với bước chân đi của Ngài.
 
Chướng ngại đã qua, nắng ấm đã lên, Ngài nhìn muôn vật mỉm cười và tự nhủ:
 
“Cửa vô sanh bất diệt đã mở ra, Đạo lớn đã thành”. Bấy giờ là vào ngày mồng 8 tháng 12 âm lịch, 
lúc Ngài 35 tuổi.[3]
 
- 
Thành Đạo Và Hoằng Pháp
 
Sau 
khi đức Thế Tôn, đoạn sạch hết thảy lậu hoặc, chứng đắc Tam minh và thành tựu 
Lục thông, Ngài thành bậc Như Lai, A-la-hán, bậc Vô thượng giác với đầy đủ mười 
phẩm tính giác ngộ.
 
Ngài 
nói: “Này các Tỳ kheo! Trong toàn thể thế giới, Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên 
giới, cùng với quần chúng Sa môn, Bà la môn, chư Thiên và loài Người, Như Lai là 
bậc chiến thắng, không bị chiến bại, toàn tri, toàn kiến, được tự tại, do vậy 
được gọi là Như Lai”.[4]
 
Và ở 
trong kinh Mật Hoàn, đức Thế Tôn đã khẳng định sự thuyết pháp của Ngài cho những 
người chất vấn rằng: “Ngài thuyết pháp không phải để tranh luận với một ai giữa 
đời”.[5] Và Tôn giả Mahakaccana đã nói cho các hiền giả về sự thuyết pháp của 
Thế Tôn rằng: “Thế Tôn biết những gì cần phải biết, thấy những gì cần phải thấy, 
Ngài trở thành vị có mắt, trở thành vị có trí, trở thành Chánh pháp, trở thành 
Brahma, vị thuyết giả, diễn giả, vị đem lại mục tiêu, vị trao cho bất tử, vị 
Pháp chủ, NhưLai”. [6]
 
Sau 
khi thành đạo, với cái biết như vậy, với cái thấy như vậy, với Chánh pháp như 
vậy... sau nhiều tuần lễ yên lặng quán chiếu, Ngài đã thương đời, thương chúng 
sanh chìm đắm trong vô minh khổ hải sinh tử, nên Ngài đã đến vuờn Nai để chuyến 
vận Pháp luân, kêu gọi năm anh em Kiều Trần Như, nên từ bỏ hai cực đoan: một là 
ép xác khổ hạnh; hai là buông lung trong các dục; và hãy thực hành Trung đạo là 
Bát chánh đạo. Sau đó Ngài chuyển vận pháp luân Tứ Thánh Đế ba lần gồm: thị 
chuyển, khuyến chuyển và chứng chuyển với đầy đủ mười hai hành tướng cho năm anh 
em Kiều Trần Như. Từ đó Phật, Pháp, Tăng có mặt một cách đầy đủ cả sự và lý ở 
trong thế gian. Phật là đấng Thế Tôn, Pháp là Bát Thánh đạo, trục quay của Tứ 
Thánh Đế và Tăng đoàn có mặt đầu tiên là năm anh em Kiều Trần Như, được thiết 
lập trên nền tảng Thánh đạo với bản thế thanh tịnh và hòa hợp.
 
Bấy giờ, Tăng đoàn của Thế Tôn càng ngày càng lớn mạnh, chánh pháp càng lúc càng 
được tuyên dương rộng rãi, rạng ngời khắp xứ Ấn độ bấy giờ.
 
Đối 
với sự nghiệp hoằng pháp, đức Thế Tôn dạy: “Như Lai hay đệ tử Như Lai thuyết 
pháp để bạt trừ tất cả nỗ lực thiên kiến, tùy miên về mọi chấp trước kiến xứ, sự 
an tịnh của mọi hành động, sự vứt bỏ mọi chấp trước, sự diệt trừ khát ái, để đưa 
đến ly tham, đoạn diệt, Niết-bàn”.[7]
 
Như 
vậy, sau khi thành đạo, đối với con đường hoằng pháp, Ngài nói: “Ngài thuyết 
pháp không quan tâm đến sự tôn trọng hay không tôn trọng của thế gian mà vì là 
trách nhiệm của Ngài đối với đời”.[8]
 
Nói 
một cách khác, vì thương chúng sanh thọ khổ mà Phật có mặt ở trong thế gian và 
thuyết pháp, giáo hóa đem lại Chánh kiến và sự an ổn 
cho cõi đời. Trong sự giáo hóa và thuyết pháp của Ngài đã có sự thống nhất và 
xuyên suốt một mục đích duy nhất như Ngài nói: “Chư Tỳ kheo! Xưa cũng như nay, 
Ta chỉ nói lên sự khổ và sự diệt khổ”.[9]
 
Với 
lý tưởng hoằng pháp để diệt khổ cho chúng sanh, Thế Tôn sau khi thành đạo, Ngài 
đã lên đường chuyển vận bánh xe chánh pháp đầu tiên tại vườn Nai và thành lập 
Tăng đoàn, để cùng Ngài hoằng pháp, đem những điều tốt đẹp, cao quý do Ngài đã 
giác ngộ truyền bá cho nhân loại khắp cả muôn nơi.
 
Giáo 
lý do Ngài giảng dạy không hề có sự tranh hơn thua với ai, mà chỉ nhắm thẳng tới 
sự diệt tận khổ đau cho con người, nếu con người biết chấp nhận pháp, nương tựa 
pháp và hành trì theo pháp, thì nhất định ngay trong đời sống nầy khổ đau sẽ bị 
diệt tận.
 
Ở 
trong các kinh điển, đức Phật đã dạy rằng: “Những ai đến với Ngài không phải để 
nói hay để tranh cãi mà đến để thấy và chứng ngộ”.
 
Tăng 
đoàn có mặt giữa cuộc đời và đi khắp thế gian, cũng chỉ vì mục đích ấy, chứ 
không vì bất cứ mục đích nào khác. Nghĩa là không tranh giành hơn thua với ai, 
với đoàn thể nào, mà chỉvì lợi ích và an lạc cho đa số; vì lòng thương đối với 
cuộc đời, mà thuyết pháp giáo hóa chúng sinh, khiến cho chúng sanh không bị tham 
dục, sân hận và si mê ám hại, như đức Phật nói ở trong kinh Đại bổn:
 
“Này các Tỳ kheo! Hãy đi cùng khắp, vì hạnh phúc cho đại chúng, 
vì an lạc cho đại chúng, vì lòng thương tưởng với đời, vì hạnh phúc, vì lợi ích, 
vì an lạc cho loài người, loài trời.
Chớ có đi hai người cùng một chỗ.
 
Này 
các Tỳ kheo! Hãy thuyết giảng Chánh pháp, sơ
thiện, trung thiện, hậu thiện, nghĩa lý đầy đủ, văn cú vẹn toàn. 
Hãy nêu rõ đời sống phạm hạnh hoàn toàn thanh tịnh. Có những chúng sanh 
ít nhiễm bụi đời, nếu không được nghe giảng Chánh pháp sẽ bị nguy hại”.[10]
 
- Kỷ 
Nguyên Mới
 
Như vậy, ta thấy ngày Thành đạo của đức Thế Tôn đã mở ra cho nhân loại một kỷ 
nguyên mới. Một 
kỷ nguyên của Chánh kiến, thấy rõ thế gian là vô thường và những gì cấu tạo nên 
nó chỉ là do quan hệ duyên khởi và trống rỗng tự ngã. Những nỗi khổ đau của con 
người ở trong thế gian không do một ai có thẩm quyền áp đặt, mà chính là do lòng 
tham dục, tính hận thù và sự kiêu căng nơi tâm họ tạo 
nên.
 
Tâm cũng vô thường như bất cứ những sự vô thường nào ở trong thế gian, nên những 
khổ đau của con người không phải là tuyệt lộ. Nó có thể thay đổi khi nhân và duyên của của nó được thay đổi. 
Nhân và duyên làm thay đổi khổ đau của thế giới con người là Bát Thánh Đạo. Thực 
hành Bát Thánh Đạo, do đức Phật công bố tại vườn Nai, sau khi Ngài thành đạo, 
trong thời thuyết giảng đầu tiên cho năm anh em Kiều Trần Như, thì những khổ đau 
của thế giới con người sẽ bị diệt tận.
 
Nên, 
ngày Thành đạo của Thế Tôn đã mở ra cho nhân loại, một kỷ nguyên mới, một kỷ 
nguyên của Chánh kiến, Chánh tư duy,... từ bậc Giác ngộ hoàn toàn. Và một niềm 
tin mới, một niềm tin mọi khổ đau của con người có thể diệt tận và hạnh phúc, an 
lạc của con người có thể có mặt ngay trong đời sống này.
 
Lại 
nữa, ngày Thành đạo của đức Thế Tôn lại mở ra cho nhân loại một kỷ nguyên mới, 
một kỷ nguyên từ bỏ mọi huyền đàm, suy tưởng, và phải biết đối diện với cái thực 
tế trước mắt, là khổ và diệt khổ, bằng con đường thực nghiệm, đoạn tận phiền não 
ở nội tâm, chứ không phải bằng con đường nô lệ thần linh qua việc tế tự, lễ nghi 
để cầu xin ban ân sủng hay tìm cầu chạy bươn theo hướng trục vật.
 
Lại nữa, ngày Thành đạo của đức Thế Tôn, đã mở ra cho nhân loại một kỷ nguyên 
mới, một kỷ nguyên của ý thức tự giác và tự nguyện. Tự 
giác và tự nguyện học đạo, tự giác và tự nguyện tầm đạo, tự giác và tự nguyện 
ứng dụng đạo, tự giác và tự nguyện chứng đạo, tự giác và tự nguyện hoằng đạo, để 
đem lại sự an bình và tốt đẹp cho cuộc đời.
 
Chính ý thức tự giác, tự nguyện ấy là khởi điểm cho mọi nền tảng hạnh phúc và 
văn minh của nhân loại. Con người không thể nào có 
hạnh phúc, khi bị người khác sai sử.
Nếu bị người khác sai sử làm vua, làm tổng thống, làm người 
xuất gia cho đến ngay cả bị sai sử làm hòa thượng đi nữa, vẫn bị khổ đau như 
thường. Nó khổ đau, vì những việc làm ấy không có gốc rễ từ ý thức tự nguyện 
và tự giác. Và xã hội loài người không thể nào có văn 
minh, tiến bộ, nếu trong những lãnh vực sinh hoạt của chúng, thiếu ý thức tự 
giác và tự nguyện này.
 
Vì vậy, ngày Thành đạo của đức Thế Tôn là ngày mở ra một kỷ nguyên mới, về đời 
sống ý thức tự giác và tự nguyện để làm lực đẩy xã hội loài người đi lên.
 
Và 
ngày Thành đạo của đức Thế Tôn là ngày không những mở đầu cho sự có mặt của trí 
tuệ toàn hảo của bậc Đại Giác Ngộ, mà còn là ngày khởi đầu hạnh nguyện đại bi và 
trách nhiệm giáo hóa của Ngài đối với muôn loài như Ngài đã nói:
 
“Ngài 
thuyết pháp không quan tâm đến sự tôn trọng hay không tôn trọng của thế gian mà 
vì là trách nhiệm của Ngài đối với đời”.[11]
 
Với 
trách nhiệm ấy, không đến với Ngài từ bất cứ quyền uy nào, mà từ ý thức tự 
nguyện, tự giác với đầy đủ hai chất liệu của đại trí và đại bi, khiến cho ngày 
thành đạo của Ngài đối với nhân loại là một nhu cầu khẩn thiết và trở thành bất 
tử trong lịch sử văn minh củathế giới con người.
 
Lịch 
sử ấy chỉ có nghĩa đích thực, khi nào những người đệ tử của Ngài, có đời sống 
biết nương tựa Pháp, học Pháp, hành theo Pháp và chứng ngộ Pháp, sống với đời 
sống như vậy, thì không có đời sống nào cao quý hơn; biết cúng dường Phật bằng 
học Pháp, hành theo Pháp và chứng ngộ Pháp, thì không còn có bất cứ sự cúng 
dường nào cao hơn; biết thiết lập đạo tràng để học Pháp, hành theo pháp và chứng 
ngộ Pháp, thì không còn có bất cứ sự thiết lập nào cao hơn; biết thương yêu và 
phụng sự cuộc đời bằng cách học Pháp, hành theo Pháp và chứng ngộ Pháp, thì 
không còn có bất cứ sự thương yêu và phụng sự nào cao hơn;và biết làm lễ kỷ niệm 
ngày thành đạo của đức Thế Tôn, bằng cách học Pháp, hành theo Pháp và chứng ngộ 
Pháp, thì không còn có bất cứ lễ kỷ niệm nào có ý nghĩa cao hơn nữa cả.
 
Vì 
vậy, là đệ tử Thế Tôn, chúng ta phải tu học tinh cần, để thấy Pháp và chứng ngộ 
Pháp, khiến mọi không gian đều là không gian của đạo, và khiến cho mọi thời gian 
đều là thời gian thực nghiệm đạo và chứng đạo, như Thế Tôn đã chứng và đã thành.
 
Đó là ý nghĩa hướng về và kỷ niệm ngày Thế Tôn thành đạo của những hàng đệ tử 
Phật chúng ta.
 
CHÚ 
THÍCH
[1] 
Kinh Thánh Cầu, Trung bộ I, tr 163, ĐHVH 1973.
[2] Phật Thuyết Tam chuyển pháp luân kinh, số 110, Đại Chính 2.
[3] 
Tham khảo Kinh Thánh Cầu, Kinh Nhất Thiết Lậu Hoặc, Trung bộ I, ĐHVH, 1973. 
Phẩm Phật Đà, Tương Ưng Bộ II, ĐTKVN, 1993. Phật Bản Hạnh Tập Kinh 31, 32, Đại Chính 3.
[4] Kinh Phật Thuyết Như Vậy, Tiểu Bộ I, Tu Thư PHVH 1982.
[5] 
Kinh Mật Hoàn, Trung Bộ I, tr109A, ĐHVH 1973
[6] 
Kinh đã dẫn như trên tr 111A.
[7] 
Kinh Xà Dụ, Trung Bộ I, tr 136B, ĐHVH, 1973.
[8] 
Kinh đã dẫn, tr 140A.
[9] 
Kinh đã dẫn, tr 140.
[10] 
Kinh Đại Bổn, Trường Bộ III, tr 45, ĐHVH, 1972.
[11] 
Kinh Xà Dụ, 
Trung Bộ I, tr 140A, ĐHVH, 1973.