Ở bài viết này, Ông cho rằng, không thể có “chánh
niệm” về cơn giận nếu chúng ta chỉ ý thức, biết rõ cơn giận đang có mặt, cho
phép nó có mặt, không phê phán, không đè nén, không để nó sai sử… Cái đó không
thể gọi là “chánh niệm”, vì khi giận thì không có chánh niệm và khi chánh niệm
thì cơn giận không có mặt! Nói cách khác, giận và chánh niệm không cùng hiện
hành trong một sát-na tâm và nội dung này được nói đến ở phần cuối bài này rất
thú vị!
Chánh niệm và những tâm sở đồng hành
Theo A-tỳ-đàm, chánh niệm
(sati) là một tâm sở thiện, chỉ sinh khởi trong một số tình huống đặc
biệt. Ngày nay, trong hầu hết các cách nói thông thường, chúng ta hay dùng thuật
ngữ này để chỉ bất cứ các yếu tố nào đã nêu trên hoặc sự kết hợp giữa các yếu tố
này. Trong các bài kinh nguyên thủy, đặc biệt là kinh Niệm xứ (Trung bộ
kinh số 10), hành giả đi đến một chỗ vắng, ngồi kiết già, giữ lưng thẳng, đặt
chánh niệm vào sự hiện diện trước mặt. Luận A-tỳ-đàm đưa ra một định
nghĩa về chánh niệm có bốn phương diện, theo cách giải thích trong các bản sớ
giải A-tỳ-đàm: (1) thể của nó là giữ tâm không dao động, hoặc giữ tâm
không trượt khỏi đối tượng đang trú tâm; (2) dụng của nó là làm vắng bặt sự xáo
trộn, ghi nhớ không quên sót (từ “niệm” xuất phát từ chữ “ký ức”); (3) tướng của
nó là trạng thái đối đầu một lãnh vực cảm nhận bằng giác quan một cách khách
quan; và (4) nhân trực tiếp là cảm thọ mãnh liệt hoặc bốn cơ sở của chánh niệm
(thân, thọ, tâm và pháp). Tất cả những định nghĩa này đưa ra sự hiện diện của
tâm rõ ràng hơn, nhấn mạnh sự chủ ý khi đặt tâm vào đối tượng kinh nghiệm trong
giây phút hiện tại, một tính chất đặc biệt của tác ý. Chúng ta có thể học hỏi
được nhiều điều hơn nữa qua việc quan sát nhóm tâm sở mà niệm cùng có mặt.
Để bắt đầu vấn đề này, ta cần nhớ đến một sự thật
hiển nhiên trong hệ thống A-tỳ-đàm là những tâm sở thiện và tâm sở bất
thiện không thể nào hiện hành trong cùng một sát-na tâm. Chánh niệm là một tâm
sở thiện, do đó, chánh niệm thật sự sinh khởi trong một sát-na tâm thì khi ấy
những tâm sở bất thiện không thể đang cùng có mặt. Có 14 tâm sở bất thiện, bao
gồm: tham (lobho), sân (doso),
và si (moho), và một số tâm sở bất
thiện đồng hành khác được tạo thành do sự kết hợp theo nhiều cách khác nhau giữa
ba gốc bất thiện này. Điều này có nghĩa rằng, ví dụ nếu chúng ta cảm thấy ganh
tỵ (issa) hay xan tham (macchariyam),
những tâm sở này choán lấy tâm ta, bám chặt tâm trong một thời điểm nhất định,
chúng làm chủ lấy tác ý của mình và tất cả các tâm sở liên quan khác đồng thời
sinh khởi, điều khiển chúng để hành động và tạo nghiệp bất thiện. Không thể nào
có chánh niệm trong sát-na ấy.
Tuy nhiên, sát-na ngay sau đó, là một sự bắt đầu
hoàn toàn mới. Ở đây chúng ta có sự lựa chọn. Nếu chúng ta được huấn luyện và
thiện xảo trong việc thiết lập chánh niệm, coi ganh tỵ và xan tham mới vừa đi
qua ấy là một đối tượng quán sát trong sát-na mới này, với một thái độ quán sát
có chánh niệm. Chúng ta có thể nói, mỗi một sát-na tâm có hai phần: đối tượng và
sự tác ý vào đối tượng mà nhờ nó, đối tượng được nhận biết. Một đối tượng tâm
thức (trần) có thể là bất cứ cái gì, bao gồm cả tác ý bất thiện từ những sát-na
tâm trước, tác ý mà nó vẫn còn lưu giữ ngay bây giờ và ở đây sẽ được định hình
bởi 52 tâm sở. Điều này có nghĩa rằng chúng ta không thể vừa ganh tỵ vừa chánh
niệm trong cùng một thời điểm, nhưng chúng ta có thể ganh tỵ trong lúc này và
chánh niệm về ganh tỵ ở thời điểm ngay sau đó. Thật ra, phần lớn những gì được
gọi là sự phát triển tâm linh bao gồm trước hết là nhận thức rõ trạng thái nào
đang khởi lên và mất đi trong kinh nghiệm của mình (không một mảy may nghi ngờ
nào), và rồi học cách quan sát chúng với chánh niệm chứ không để bị chìm vào và
để chúng cuốn đi (có thể khá nản lòng khi làm điều này, nhưng không phải là
không thể; đây là một nhiệm vụ).
Một trong những nguồn tuệ giác đáng kinh ngạc được
ghi nhận trong A-tỳ-đàm là chánh niệm luôn hiện hành đồng thời với 18 tâm
sở thiện. Chúng ta thường suy nghĩ về điều này theo một cách khác, nhưng sự thật
tất cả những tâm sở này sinh khởi cùng nhau gợi cho chúng ta ý tưởng rằng, những
tâm sở này được xem như những cạnh khác nhau của cùng một viên ngọc, vì chúng
phản chiếu vẻ đẹp cho nhau. Bằng cách xem lại kỹ lưỡng ranh giới những tâm sở
thiện cùng sinh khởi với chánh niệm, chúng ta có thể nhìn rõ hơn, gần hơn vào
phương diện hiện tượng học của chánh niệm.
Đầu tiên là sự quân bình nội tâm (xả) (tatra-majjhattata).
A-tỳ-đàm thật ra sử dụng từ có tính kỹ thuật hơn để chỉ cho trạng thái
tâm này (nghĩa là “có sự quân bình”), nhưng về mặt dụng, nó tương đương với tâm
xả, một thái độ bình thản đối với các trải nghiệm, không dính mắc cũng không
chống đối với bất kỳ đối tượng nào. Do vậy, tâm sở này còn được mô tả là vô tham
(alobho) và vô sân (adoso).
Đây là cách phổ quát của A-tỳ-đàm khi một mặt dùng để chỉ cho sự rộng
lượng hay không tham chấp, mặt khác là sự thể hiện tâm từ.
Chúng ta có thể thấy cách mà cả ba tâm sở này hoạt
động cùng nhau trên một chuỗi liên tục để phác họa đặc tính có lẽ là đặc biệt
nhất của chánh niệm. Khi chánh niệm thật sự hiện hành, chúng ta có cảm giác như
thể mình đang lùi lại và quán sát những gì đang diễn ra trong cảm nhận của mình,
chứ không phải gắn chặt vào trong đó. Điều này không có nghĩa là tách rời ra hay
dính mắc vào, mà đó là cảm giác không bị cầm giữ bởi một đối tượng thích thú hay
đẩy ra xa bởi đối tượng không ưa. Đó là khoảng giữa, thăng bằng cách đều hai
cực, hành giả gặp phải cảm giác tự do cho phép tiếp cận kinh nghiệm gần gũi hơn.
Dường như có nghịch lý ở đây, nhưng hệ thống này cho thấy rằng, chúng ta có thể
có thái độ với các đối tượng kinh nghiệm cùng một lúc vừa bình thản vừa rộng
lượng bao dung. Tâm từ bao hàm một sự tác ý thân thiện và sâu sắc nghĩ về lợi
ích, bình an của người khác, nhưng nó không xuất phát từ tâm tham lam ích kỷ để
thỏa mãn. Tương tự như vậy, sự rộng lượng hiện hành cùng lúc với tâm xả cho thấy
rằng tác ý sâu sắc đến việc cho đi một vật gì giá trị đến người khác có thể hàm
chứa ý niệm không hề mong muốn nhận lại bất kỳ một sự đền đáp nào.
Cùng đồng hành với tất cả những tâm sở này là bộ
đôi “hộ trì thế gian” là tự trọng (tàm-
hiri) và tôn trọng người (quý -
ottappam). Tôi thấy mấy từ này hay hơn những từ mà người ta quen dùng là
“hổ” (moral shame) và “thẹn” (moral dread) với những lý do rõ ràng, là những từ
này tuy thông dụng nhưng không phù hợp và không liên hệ gì đến tâm lý Phật giáo.
Khái niệm đầu tiên là “tàm”, nghĩa là nằm trong lương tâm mỗi người, nhờ đó mà
chúng ta tự biết một hành động mình đang làm hoặc sắp sửa làm có đúng hay không.
Khái niệm thứ hai là “quý”có tính xã hội hoặc liên hệ đến quan điểm giữa các cá
nhân với nhau về lương tâm. Là chúng sanh, tôi nghĩ chúng ta cần phải điều chỉnh
khuynh hướng bản năng để cảm thông với đồng loại và tự phản tỉnh để hiểu những
gì chúng ta đang suy nghĩ, nói hay hành động bên trong cũng như bên ngoài quy
ước xã hội. Hai yếu tố tự tôn trọng (tàm) và tôn trọng người khác (quý) được gọi
là hai pháp hộ trì bởi vì chúng luôn vận hành trong tất cả các trạng thái tâm
thiện, trong khi đó, hai yếu tố đối nghịch, thiếu tự trọng (vô tàm-
ahirikam) và thiếu sự tôn trọng người khác (vô quý-
anottappam) lại hiện hành trong tất cả các trạng thái tâm bất thiện.
Tiếp theo, chúng ta có niềm tin (saddha)
luôn đồng hành cùng chánh niệm. Trong mỗi sát-na trong chánh niệm cũng chính là
sát-na của niềm tin hay sự tin tưởng, không phải là trạng thái tâm dao động hay
do dự, và tâm sở này trái ngược với tâm sở bất thiện là nghi ngờ (vicikiccha).
Còn lại là xem xét nhóm gồm 6 tâm sở đồng hành nhau, mỗi một tâm sở đều gắn với
tâm và tâm sở (ví dụ tâm sở tĩnh lặng, tâm tĩnh lặng…). Các thuật từ này thể
hiện tất cả những đặc tính của chánh niệm: tĩnh lặng, khinh an, nhu thuận, thích
ứng, tinh luyện, chánh trực. Về phương diện thực tế, những đặc tính này có thể
phục vụ như những dấu hiệu hữu ích để nhận biết khi nào chánh niệm đang thật sự
hiện hành. Nếu chúng ta đang xem xét một đối tượng kinh nghiệm trong khi thiền
định với các dấu hiệu như trạo cử lăng xăng chẳng hạn, hoặc trầm nịch nặng nề,
hoặc thô cứng vụng về, chúng ta biết chắc rằng khi ấy chánh niệm không có mặt.
Cùng một cách như vậy, chánh niệm chắc chắn hiện hành khi tất cả sáu đặc tính ấy
cùng sinh khởi với nhau, mỗi đặc tính hỗ trợ và hàm chứa đặc tính khác. Tất cả
những đặc tính này có mặt, ngay lập tức, tâm đang ở trạng thái an lành, năng
động, nhu nhuyến, hiệu quả, có năng lực và vững chãi.
Nuôi dưỡng chánh niệm
Với tất cả những gì vừa trình
bày, chúng ta có thể thấy rằng chánh niệm hiếm khi có mặt, nó chỉ hiện hành dưới
những điều kiện vô cùng đặc biệt. Tuy nhiên, thật ra chánh niệm là điều tất cả
chúng ta đều trải nghiệm qua, trong tình huống này hoặc tình huống khác. Sự nuôi
dưỡng chánh niệm bằng cách thực hành thiền cần phải bắt đầu bằng việc nhận biết
chánh niệm khi nó có mặt và học cách làm thế nào để phát triển chánh niệm. Từ
Pāli dùng để chỉ sự phát triển là
bhavana, có nghĩa đơn giản là “tạo nên…”. Bài
kinh căn bản về thiền định là bài “Thiết lập chánh niệm” (Kinh niệm xứ) đưa ra
sự hướng dẫn đơn giản như sau:
Khi chánh niệm có mặt trong nội tâm, vị ấy biết rõ
“chánh niệm đang có mặt trong nội tâm”. Khi chánh niệm không có mặt trong nội
tâm, vị ấy biết rõ “chánh niệm không có mặt trong nội tâm”. Chánh niệm chưa
từng khởi lên trước đó, nay đang khởi lên, vị ấy biết rõ điều ấy. Khi chánh niệm
đã từng khởi lên trước đó, nay được phát triển đến mức viên mãn, vị ấy biết rõ
như vậy (Trung bộ kinh, số 10).
Trong khi thiền định có chánh niệm, chúng ta nỗ lực
để tạo ra các điều kiện thuận lợi cho chánh niệm phát sinh, thân tâm nhẹ nhàng,
thư thái, tập trung chú tâm một cách thận trọng nhưng nhẹ nhàng vào phương diện
nào đó của kinh nghiệm, đồng thời tạo ra nguồn năng lượng đủ để duy trì sự tỉnh
thức không để mất đi cảm giác khinh an và tịch tĩnh. Dưới những điều kiện như
vậy, khéo duy trì liên tục, chánh niệm sẽ khởi lên như là một món quà tặng của
thế giới tự nhiên, như thể đó là món quà trong sáng và tĩnh lặng từ nơi sâu thẳm
nhất của nguồn tâm đến mớ hỗn tạp trên phần nông cạn của ý thức. Khi chánh niệm
có mặt, chúng ta dần học được cách giữ cho chánh niệm an trú lâu dài, đưa nó trở
về và thiết lập lại nếu nó mờ nhạt và thường xuyên tưới tẩm chăm gốc và nhổ cỏ
dại trên đất tâm để nó có thể nở hoa trong thói quen dễ thương và ổn định trong
tâm và trí.
Cộng đồng khoa học ngày nay rất thích dùng thuật từ
“chánh niệm” mà bỏ đi phương diện đạo đức trong truyền thống Phật giáo, chỉ tập
trung những nghiên cứu của họ vào phương diện kỹ thuật của thiền định, trong khi
đó, chúng ta có thể thấy từ cách xử lý của A-tỳ-đàm về vấn đề này thì
chánh niệm thật sự sâu thẳm và gắn chặt với trạng thái tâm thiện. Mặc dù khoa
học về não bộ chưa khám phá ra lý do tại sao, thì luận A-tỳ-đàm, căn cứ
hoàn toàn trên những khám phá mang tính hiện tượng, đã tuyên bố rằng khi tâm đặt
vào hành động gây tổn hại thì không thể nào có chánh niệm. Ví dụ có thể tăng
cường sự chú tâm (tác ý), tập trung (định) và dồn sức lực (tinh tấn) khi một
người bắn súng nhắm đầu súng đến đích, thế nhưng bao lâu sự chủ ý của viên đạn
ấy hướng đến mục đích là lấy đi mạng sống của người khác, thì nó luôn bị sân, si
và tà kiến (ditthi) hoặc một số
tâm sở bất thiện thống trị. Ví như một cái cây nhổ ra khỏi rừng cây thì không
còn là một cái cây sống nữa mà là một khúc gỗ, cũng như vậy, nếu không còn sự
nuôi dưỡng chú tâm vào chánh niệm vốn được chiết xuất từ căn bản của các tâm sở
thiện đồng hành, thì đó chỉ còn là sự chú tâm mà thôi.
Một câu hỏi cuối cùng cần được nêu ra: khi chúng ta
thật sự phát triển chánh niệm, có phải là chúng ta đang phát triển trí tuệ? Nếu
định (samadhi) là cầu nối giữa một
bên là giới (sila) và bên kia là
trí tuệ (pañña), liệu chánh niệm
có chắc chắn đưa đến trí tuệ? Câu trả lời không mấy dễ chịu cho câu hỏi này lại
là “không”. A-tỳ-đàm liệt kê trí tuệ (pañña)
là tâm sở cuối cùng. Trí tuệ chắc chắn là tâm sở thiện, nhưng nó không phải tâm
sở thiện hiện hành phổ biến và như thế nó không tự động sinh khởi cùng với chánh
niệm và các tâm sở khác.
Trí tuệ, được hiểu là thấy các pháp như chúng đang
là, là một nguyên tắc chuyển hóa có tính quyết định trong truyền thống Phật
giáo. Chúng ta thực hành thiền định mà không nhất thiết phải có chánh niệm.
Tương tự như vậy, nếu muốn, chúng ta có thể thực hành chánh niệm mà không phát
triển trí tuệ. Nếu chánh niệm không kết hợp với tuệ giác (cách nói khác của trí
tuệ), thì bản thân chánh niệm không đưa đến sự thay đổi đáng kể trong nhận thức
của hành giả. Sự chuyển hóa thật sự chỉ diễn ra khi nhổ tận gốc sự phản chiếu
của bản ngã trên kinh nghiệm của bản thân (“đây là tôi, đây là sở hữu của tôi,
đây là bản ngã của tôi”) thay vì thấy các pháp là vô thường, vô ngã, hiện tượng
do duyên khởi mà thành. Thực hành chánh niệm là điều kiện căn bản cho sự chuyển
hóa, nhưng chỉ một mình chánh niệm thì chưa đủ để về đến đích. Như được đề cập
đến trong một bài kinh rằng, chánh niệm giống như nắm lấy một nắm lúa trong một
tay, còn trí tuệ ví như tay kia đưa lưỡi liềm ra cắt.
Với sự sinh khởi của chánh niệm, cũng như sự phát
sinh trí tuệ, không thể thúc giục bởi ý chí hay sắp đặt bởi các kỹ thuật thiền
định. Những điều kiện hỗ trợ cho trí tuệ phát sinh này cần phải được nuôi dưỡng
thường xuyên và kiên định, chánh niệm trong từng sát-na, cho đến khi tự thân nó
hiển bày một cách trọn vẹn, như hoa sen vượt lên khỏi nước và như trăng kia
thoát khỏi áng mây mù.
Đây có thể chưa phải là lời cuối cùng về đề tài
này, nhưng tôi tin rằng những phân tích vừa rồi có thể giúp chúng ta thận trọng
hơn khi sử dụng thuật từ chánh niệm không quá máy móc. Ít ra có hai điều khá rõ
ràng: chắc chắn không có năng lực nào của tâm cao quý hơn chánh niệm và sự nuôi
dưỡng chánh niệm hẳn phải là điều lợi lạc hơn bao nhiêu điều khác mà chúng sanh
như chúng ta có thể làm.
(Từ “The Real Practice of
Mindfulness” của Andrew Olendzki)