Chùa Bửu Minh

Một khi chưa tin hiểu giáo lý Phật giáo sẽ sản sinh ra nhiều tín ngưỡng sai lạc đối với thế giới vô hình. Từ đó dẫn đến không nhiều người biết cách thể hiện tình thương và báo ân đúng nghĩa đối với người đã qua đời. Cần biết rằng, song hành với việc thực hiện các nghi lễ siêu độ vong linh còn có nhiều phương pháp tu học khác cũng tạo thêm phước lành thù thắng để hồi hướng cứu độ vong linh thoát khỏi cảnh giới khổ đau.

 Phật giáo chỉ rõ ra rằng, tâm phiền não tham sân si là nguyên nhân chính đưa đến sự đọa lạc vào các cảnh giới khổ đau. Cho nên ý nghĩa siêu độ cần được luận giải từ nơi tâm, vì tâm là chủ thể của mọi hiện tượng, bao gồm cả hiện tượng sống chết, luân hồi và giải thoát. Chánh kiến trong việc cầu siêu là đem tâm thanh tịnh, tâm thành kính, tâm từ bi cứu khổ thể hiện các Phật sự để kiến tạo công đức hồi hướng siêu độ cho vong linh.

Cầu siêu, cầu là mong cầu, siêu là vượt qua hay còn gọi là siêu thoát. Nghĩa là dùng phương thức nào đó để giúp cho vong linh của người đã chết siêu thoát khỏi các cảnh giới khổ đau. Đó là quan niệm thông thường trong thế gian. Cầu cho vong linh siêu thoát về đâu còn phụ thuộc vào tín ngưỡng và mục đích của người cầu nguyện. Đối với Phật pháp thì kết quả vấn đề cầu siêu phụ thuộc vào tâm linh và phương thức siêu độ. Cảnh giới siêu thoát lý tưởng là niệm Phật nguyện cho vong nhân sanh về Cực lạc. Do vậy, nhận thức về ý nghĩa sống chết giúp chúng ta có chánh kiến trong tu học và hiểu thêm về quan niệm cầu siêu. Thế gian quan niệm rằng: “Âm dương đồng nhất lý”. Lý ở đây là nguyên lý nhân quả, đời sống chúng sinh chính là nghiệp quả của họ đã tạo ra. Cho nên cõi nào còn có sanh, già, bệnh, chết thì còn có khổ đau. Cõi âm hay cõi dương cũng thế. Nhưng cần phải hiểu rộng ra, người sau khi chết sẽ tái sanh vào nhiều cảnh giới khác nhau. Theo giáo lý nhà Phật thì thế giới con người chỉ là một trong mười pháp giới1 đang hiện hữu. Các thế giới tương dung tương nhiếp lẫn nhau. Chúng sinh trong ba cõi chỉ do một tâm này mà tồn tại, “Ba cõi chỉ là nhất tâm”2. Chính vì lẽ đó mà cõi âm và cõi dương liên hệ với nhau chặt chẽ qua sự chi phối nghiệp lực và nhân quả. Tâm thức và nhân duyên là mối liên hệ con người cùng thế giới xung quanh.

Nghiệp lực làm nhân duyên cho người đã khuất lưu luyến đến người thân, đến gia đình, dòng tộc, quốc gia và xã hội và cả nhân loại nói chung. Cho nên trách nhiệm cầu siêu và báo ân đối với người đã khuất là chung của tất cả mọi người trong xã hội. Nhìn theo góc độ Phật giáo thấy rằng tất cả chúng sanh đã từng có nhân duyên nghiệp lực với nhau nhiều đời kiếp trong chốn sanh tử này. Đức Phật dạy: “Vô thỉ luân hồi, này các Tỳ-kheo, không dễ gì tìm thấy một chúng sinh trong một thời gian dài lại không một lần nào làm mẹ làm cha”3. Qua ý nghĩa đó mà Phật giáo nâng lên quan điểm báo ân cha mẹ, ân Tam bảo, ân quốc gia xã hội và ân cả pháp giới chúng sanh.

Chúng ta và người đã qua đời vẫn còn mối quan hệ. Sống và chết chỉ là tạm gọi, vì thực chất sống hay chết đều đang chuyển biến. Chấm dứt thân thể vật lý này gọi là chết, tâm thức đang đi vào một thế giới mới. Khổ đau hay hạnh phúc thì do nghiệp quyết định, tất cả chúng sanh là sản phẩm của nghiệp: “Các loài hữu tình là chủ nhân của nghiệp, là thừa tự của nghiệp. Nghiệp là thai tạng, nghiệp là quyến thuộc, nghiệp là điểm tựa, nghiệp phân chia các loài hữu tình; nghĩa là có liệt, có ưu”4.

Tất cả chúng sinh đều từ nghiệp mà sinh ra, nghiệp ấy do tâm tạo, chuyển nghiệp cũng từ tâm mà chuyển. Do vậy ý nghĩa siêu độ, cứu giúp người âm thoát khỏi khổ đau có hiệu quả hay không là do tâm lượng con người quyết định. Giải thoát khổ đau địa ngục thì cần có cái tâm hướng về đạo đức giải thoát. Như tâm tu tập giới, định và tuệ; tâm tu lục độ v.v… Bản chất các tâm giác ngộ nuôi dưỡng hai yếu tố từ bi và trí tuệ. Từ góc độ tu tâm như thế mà khởi các hạnh lành trong pháp siêu độ thì mới có hiệu quả. 

Vấn đề nghi lễ siêu độ mang lại sự lợi lạc cho vong linh và chúng cô hồn được đề cập đến trong kinh văn Đại thừa. Người phát tâm làm nghi thức cầu siêu phải có tâm thương xót vong linh, âm linh cô hồn nói chung và lòng thành kính với chư Phật và hiền thánh tăng. Trong kinh dạy rằng, chư Phật và Bồ-tát thường ứng thân vào trong các loài chúng sanh mà cứu độ. Nghi thức chẩn tế hay cúng thí thực trước thỉnh Phật và Bồ-tát chứng minh, sau đó thỉnh các chơn linh, vong linh và cô hồn về thọ nhận phẩm vật là vậy. Chúng sanh do nghiệp lực sai biệt nên thọ dụng thức ăn cũng sai biệt. Hương hoa phẩm vật trần gian nhờ Phật lực gia trì mà biến thành cam lồ khiến cho họ được no đủ. Phương pháp này dùng khoa Du-già (yoga) Phật giáo Đại thừa thực hiện. Có nghĩa dù biểu hiện dưới hình thức nghi lễ nào, hành giả phải có lòng thành thanh tịnh, tam nghiệp thân khẩu ý tương mật mới nhập vào cảnh giới nhất tâm. Tâm cảm được Phật lực mới có sự lợi ích cho việc siêu độ thân nhân quá vãng, cha mẹ nhiều đời nhiều kiếp. Đó là điều chắc thật mà Đức Phật từng dạy trong kinh điển: “Hãy phát tâm rộng lớn vì cha mẹ nhiều đời nhiều kiếp đến nay, khắp vì muôn loại chúng sanh ở tinh tú thiên tào, âm ty địa phủ, diêm ma quỷ giới, côn trùng nhỏ nhít máy động, tất cả hàm linh mà bày ra sự cúng dường vô giá quảng đại, mời đến phó hội, để nương oai quang của Phật, gột rửa ruộng thân, được lợi thù thắng, hưởng vui nhân thiên”5. Qua đoạn kinh trên ta thấy, cúng thí thực âm linh cô hồn, gọi là pháp Vô giá quảng đại, nương oai đức của Phật mà chúng sanh đều lợi lạc, dựa trên cái tâm rộng lớn. Đó là tâm Bồ-đề cứu độ chúng sanh. Khi có cái tâm ấy thì âm siêu và dương thái. Nếu hình thức nghi lễ nào mà thiếu cái tâm cao thượng thì đi ngược lại với xu hướng giác ngộ của Phật dạy.

Trong kinh điển Đức Phật còn dạy các hình thức siêu độ khác nữa. Phát tâm tu học cũng là phương thức siêu độ vong linh có hiệu quả cao. Niệm Phật và tụng kinh cầu nguyện là đem tâm Phật để điều phục tâm mình. Đem tình thương của Phật để chia sẻ cho muôn loài. Chúng ta tin Phật, thờ Phật mà chạy trốn cảnh khổ đau xung quanh thì trái với bản nguyện của đạo Phật. Những người đã khuất hay người đang còn sống họ có duyên mới tiếp cận với chúng ta. Trong giáo lý Mật tông và Tịnh độ khuyên hành giả cần tu niệm Phật, trì chú, tụng kinh để hồi hướng siêu độ cho người âm được siêu thoát. Tâm giúp đỡ vong nhân chính là lòng từ bi. Từ bi tam muội mới biến thức ăn thành cam lộ giúp chúng sanh cõi âm được siêu thoát. Cõi âm cũng như cõi dương. Chúng sanh đang đói về lòng bố thí nên bị đắm trong địa ngục đói khổ, đang đói về tình thương nên chìm sâu trong cảnh sân hận hành hạ và ăn nuốt lẫn nhau, đang đói về trí tuệ nên sống trong địa ngục vô minh, thần thức đang vô định nên cần giáo lý thiền định giải thoát. Chúng ta phải hiểu như vậy để y pháp cúng dường bố thí với nhiều phương diện, như tài thí, pháp thí và vô úy thí cho chúng sanh.

Đối với Phật tử tại gia ngoài vấn đề bố thí tiền tài, cần bố thí pháp thông qua chia sẻ kinh nghiệm tu học cho đạo bạn, giáo dục con cháu và khích lệ thân nhân họ tộc quy y Tam bảo. Bên cạnh đó phát tâm ấn tống kinh sách Phật giáo, ủng hộ Tam bảo trường tồn là điều phước đức lớn để siêu độ thân nhân. Giả sử chúng ta không có tiền tài bố thí thì có thể chia sẻ cho người khác đang khổ đau bằng tình thương và sự hiểu biết cũng là công đức vô lượng. Đời người nhiều lo âu và sợ hãi, họ sợ mất mát thất bại, sợ khổ đau. Giúp cho họ sống có trí tuệ, sống có đạo lý là cách bố thí rất thiết thực. Người còn sống muốn giúp vong linh thân nhân siêu thoát phải có tâm lực. Tức là đời sống có đạo đức, như phát tâm quy y Tam bảo, thọ trì giới pháp. Vì chúng ta đều biết, con đường Giới, Định và Tuệ là con đường giải thoát khổ đau chúng sanh. Chúng ta sống có đạo đức để làm ngọn đèn soi đường cho người cõi âm đi ra khỏi bóng tối vô minh u ám. Địa ngục khổ đau do tâm tạo, giải thoát giác ngộ cũng do tâm khởi. Cho nên sống có đạo đức là biểu hiện một phương thức siêu độ rất cao. Cổ đức có câu: “Nhất nhân thành đạo, cửu huyền thăng”. Tu học thành đạo mới cứu giúp thân tộc nhiều đời kiếp. Thành đạo do tâm mà thành, đem tâm mà tu tập thì nhiếp muôn đức lành. Tuy chưa thành Phật nhưng chúng ta sống đúng Chánh pháp, thì mọi hành động biểu hiện trong đời sống này đều là hành trang giải thoát sinh tử luân hồi.

Cầu siêu phải có tâm thành kính. Trước hết chúng ta phải có tình thương và lòng kính trọng người đã khuất mà thực hành pháp sự siêu độ. Tình thương đó phải chân thành, biết đau xót và rung cảm trước cảnh khổ đau của người đã qua đời. Đó là tiếng chuông giao cảm Phật lực gia trì tâm nguyện của mình. Tình thương ấy chúng ta tìm thấy được qua hình ảnh các Thánh giả đã từng cứu độ vong nhân. Ai đã đọc kinh Vu lan mới thấy giọt nước mắt của ngài Mục Kiền Liên đã khóc vì thương mẹ đến cầu Phật chỉ dạy pháp cứu độ. Giọt nước mắt của Quang Mục và Thánh nữ Bà la môn trong kinh Địa Tạng khóc vì thương mẹ mà phát tâm Bồ-đề, nguyện thành Phật độ chúng sanh. Những giọt nước mắt ấy là tình thương, là tâm từ bi. Khi có tâm ấy mà cúng dường Tam bảo, cúng dường trai tăng, hay cúng dường chùa chiền và làm tất cả điều lành khác đều có hiệu ứng thiết thực. Do có tâm như vậy mà mẹ của ngài Mục Kiền Liên, mẹ của Quang Mục và mẹ của thánh nữ Bà la môn mới được chuyển hóa và siêu thoát.

Muốn nhận thức rõ người đã qua đời mong mỏi điều gì và đời sống người sau khi chết ra sao thì nên đọc kinh điển Đại thừa như kinh Vu lan, kinh Địa tạng, văn Thủy sám Lương hoàng sám. Khi đọc những kinh văn này, bản thân chúng ta biết đau xót, biết rung cảm, biết phát khởi tâm chính đáng cho mọi hình thức siêu độ. Nếu có tâm lành đó rồi thì chỉ bông hoa và chén nước cúng ở chùa có công đức không thể nghĩ bàn. Phải có sức quán tưởng chân thành rằng các Đức Phật và Bồ-tát đó đang sống trong đời này. Như vậy thì mới có giao cảm tâm chúng sanh và tâm Phật. Tâm chúng sanh mà cảm được tâm Phật thì gọi là đạo cảm thông. Tâm ấy thanh tịnh và siêu thoát mọi khổ đau. Tâm chân thành, tâm thanh tịnh, tâm bất thối chuyển trên đường giác ngộ. Đem tâm ấy mà hành thiện hồi hướng cho người cõi âm sanh về thế giới Tây phương Cực lạc. Điều đó là hợp với nguyện lực của Phật A Di Đà mà các kinh điển Đại thừa Phật giáo xác nhận rõ ràng.

Cầu siêu cho người qua đời là nếp sống nhân bản rất đáng tôn trọng. Nó khẳng định mối tương quan của người sống và người chết. Đó là thông điệp giúp con người nhận thức sâu sắc rằng sống không phải là bắt đầu và chết không phải là kết thúc. Ý nghĩa này là điểm then chốt trong triết lý sống Phật giáo. Điều này giúp con người sống có trách nhiệm với hành động của chính mình trong hiện tại và tương lai. Đó là nền tảng đạo đức mà cá nhân, gia đình, xã hội và nhân loại đang cần thiết. Quan niệm này là tri thức cần được phổ cập trong sự giáo dục về đời sống con người. Vì cái bế tắc của số đông người hiện nay là ý thức hệ cực đoan, không tin luật nhân quả luân hồi, tái sanh. Từ đó mà bao nhiêu tệ nạn xấu ác xảy ra, sống là hưởng thụ, chà đạp quyền sống của nhau. Thái độ sống như thế làm cho cuộc đời khổ đau và đen tối hơn, vì họ tin rằng chết là hết! Tín ngưỡng cầu siêu hàm chứa nét nhân bản trong văn hóa, thấm nhuần triết lý sống của đạo Phật. Chúng ta cúng bái cầu siêu cho người âm thể hiện đạo lý báo ân. Chúng ta làm phước siêu độ cho chúng sanh bớt khổ thì tự nhiên có tâm từ bi. Người có đức hạnh từ bi thì có phước đức trong đời sống. Tín ngưỡng cầu siêu trong Phật giáo có nhiều lợi ích, nhưng quan trọng nhất là giới thiệu cho mọi người nhận thức về thế giới quan của Phật giáo Đại thừa. Trong đó thù thắng nhất là thế giới Tây phương Cực lạc mà mọi người tu niệm Phật hướng đến trong đời này và sau khi lâm chung.

Mục đích người học Phật lấy trí tuệ làm sự nghiệp giác ngộ. Ý nghĩa siêu độ là thể hiện tinh thần lợi tha, như là phương tiện hành đạo. Vấn đề thực hiện tất cả các hình thức siêu độ phải xuất phát từ tâm từ bi mà thể hiện. Vì tâm là chủ thể của các pháp, khổ đau hạnh phúc do tâm mà tạo. Vấn đề tu học là sự nhận biết con người và thế giới xung quanh. Điều căn bản là biết đối nhân, xử thế mới có sự lợi ích chung. Lẽ sống ấy, đem tâm Phật chan hòa vào lòng đời, vào thế giới người đã khuất với tình thương và lòng ân nghĩa. Dù cõi âm hay cõi dương cũng biểu hiện sự sống và mong muốn thoát khổ và tìm vui. Tất cả chúng ta không ngoài thông lệ ấy. Từ đó mới thấy rằng, Phật pháp luôn đem lại hương vị giải thoát cho tất cả chúng sinh.


 Thích Đức Trí (GNO)



©2010 -2024  Chùa Bửu Minh | Homepage