Chùa Bửu Minh

Nhớ lại, ngày xưa khi còn là một chú bé ngây thơ, hằng năm, tôi thường theo mẹ tôi đến chùa dự lễ Phật Ðản vào ngày mùng tám tháng tư âm lịch. Hồi đó, ở quê các chùa thuộc hệ phái Phật giáo Bắc Tông đều cử hành đại lễ Phật Ðản vào ngày mùng tám, chớ không phải ngày rằm như hiện nay.


Người Phật tử ở thôn quê họ chơn chất thật thà lắm. Họ đi chùa phần nhiều là theo tục lệ truyền thống ông bà nhiều hơn. Kỳ thật, ít có mấy ai thâm hiểu giáo lý Phật giáo sâu xa. Thậm chí, việc tụng niệm hay mặc áo tràng đối với họ cũng thật là xa lạ và bỡ ngỡ. Song có điều họ rất thương yêu và giúp đỡ lẫn nhau. Trong xóm làng gia đình nào có hữu sự, thì những gia đình khác họ đều quan tâm và cùng nhau chung lo. Quả đúng với câu nói của người xưa: “Nhất gia hữu sự bá gia ưu”. Nghĩa là một nhà có việc, thì trăm nhà cùng lo. Ðó là một tập tục rất hay, rất đẹp và rất cao quý của người dân quê.

Ðến công việc chùa cũng thế. Khi chùa có việc, thì họ kéo nhau đến phụ giúp, gọi là làm công quả. Dù cho có bận rộn việc nhà đến đâu, họ cũng cố gắng thu xếp để đến lo công việc cho chùa. Vì họ quan niệm, chùa là ngôi nhà chung của họ, mà mọi người đều phải có trách nhiệm chung lo. Khi giúp chùa, họ không bao giờ có ý tính toán nạnh hẹ so đo. Tùy theo khả năng sức khỏe mà họ làm. Nhất là quý bà quý cô, trước lễ chánh thức một ngày, họ kéo nhau về chùa rồi xúm xít nhau làm, kẻ việc nầy, người việc nọ để chuẩn bị đãi đằng cho ngày đại lễ. Họ cật lực làm việc trong tinh thần hài hòa cởi mở và tận tình giúp đỡ cho nhau. Họ nói chuyện vui cười với nhau một cách rất là thoải mái tự nhiên. Có sao nói vậy, họ không thích sống bề ngoài. Họ rất sợ tội lỗi và lúc nào họ cũng muốn chắt mót bòn thêm phước đức. Ðó là nét đặc thù chơn chất mộc mạc thật là dễ thương quý mến và rất quý kính của người dân quê.

Thông thường, trước thời khóa lễ chánh thức, thì có lễ tắm Phật. Người ta chuẩn bị rất chu đáo và rất trang nghiêm cho buổi lễ tắm Phật nầy. Một tượng Phật sơ sanh được đặt vào chính giữa thau nước. Nước mưa, họ lọc rất kỹ. Dĩ nhiên, trước đó người ta đã lau chùi tượng Phật rất kỹ lưỡng sạch sẻ. Một thau nước lớn để trên một cái bàn nhỏ. Cái bàn cũng được thiết trí rất xinh xắn trang hoàng. Người ta rải nhiều thứ bông trong thau nước. Những bông hoa đủ màu xanh, vàng, đỏ, trắng, nổi lều phều trên mặt nước. Những tràng hoa được kết thành đủ loại màu sắc tuyệt đẹp. Những tràng hoa nầy, người ta choàng lên thân hình tượng Phật sơ sanh, trông rất xinh lịch đẹp mắt. Ðồng thời, bên cạnh thau nước lớn, người ta còn để hai cái gáo tròn nhỏ xinh đẹp để cho mọi người múc nước tắm Phật.

Ðến giờ hành lễ, vị thầy trụ trì và một vài ông đạo (ở quê người ta thường gọi những vị mới vào chùa tu bằng ông đạo) lên chánh điện để làm lễ. Bổn đạo thì lên trước kẻ đứng, người ngồi. Bên nam thì đứng, bên nữ thì ngồi. Còn bọn trẻ như chúng tôi, thì ngồi đứng không yên, muốn đứng thì đứng, muốn ngồi thì ngồi, không ai thèm để ý đến. Chúng tôi còn chọc ghẹo khều móc với nhau, giống như những con khỉ nhảy nhót. Tuổi trẻ vì ham vui mà đi chùa, chớ nào có biết lễ lạy, tụng kinh bái sám gì đâu! Nhiều khi thấy mấy ông đạo cạo trọc đầu láng o, bọn tôi còn trêu chọc cười đùa ngạo nghễ cho vui nữa. Thật nào có biết tội phước là gì! Tuổi trẻ thơ ngây cứ lấy sự vui đùa làm sở thích. Nghe nói đi chùa có nhiều chè xôi bánh trái, lại thêm có các cô thiếu nữ trẻ đẹp. Nghe thế, bọn chúng tôi rất vui thích đến chùa để được ăn chè xôi bánh trái và lại thêm có cơ hội để trêu chọc mấy ả cho vui. Tâm trạng đi chùa của bọn trẻ chúng tôi hồi đó chỉ biết có ngần ấy, thế thôi…

Ðiều mà tôi hơi lấy làm lạ, nhiều bà đi chùa lại có mang theo chay không để đựng nước. Kể cả mẹ tôi cũng thế. Có lần, tôi hỏi mẹ tôi, mẹ đi chùa mà mẹ đem theo chay không để làm gì? Mẹ tôi nói: Mẹ đem theo để lấy nước tắm Phật về cho mọi người trong nhà uống để được mạnh khỏe. Uống nước nầy có chư Phật, Bồ Tát gia hộ, nên suốt năm không có ai bệnh hoạn và có nhiều việc may mắn đến với mình nữa. Nghe mẹ nói, thì tôi chỉ biết vậy thôi. Chớ tôi đâu có biết nghĩ ngợi suy luận gì hơn. Mà giả như, tôi có lý luận về lý nhân quả báo ứng đi nữa, thì chắc gì bà nghe. Chẳng những không nghe thôi mà trái lại, bà còn la rầy tôi nữa.

Khi lớn lên, nhờ có chút duyên lành học hỏi Phật pháp, nhất là giáo lý Ðại thừa, thì tôi mới thấy điều nầy quả thật là quá mê tín dị đoan. Nhưng đối với những người đó cũng như mẹ tôi thì họ rất là tin tưởng. Ðó là một niềm tin rất đơn thuần chất phác và không được điều hướng bởi lý trí. Người dân quê, nhất là phái nữ đại đa số đều có niềm tin như thế. Làm sao họ có thể hiểu và tin sâu vào lý nhân quả! Cho nên, ta cũng không lấy gì làm ngạc nhiên mà trách họ được. Thậm chí, như hiện nay, vẫn còn có một số Phật tử nữ sau khi làm lễ tắm Phật xong, họ vẫn lấy nước tắm Phật về nhà uống. Ðó cũng là một niềm tin theo thói quen. Nếu uống nước đó mà hết bệnh, thì mỗi ngày ta mỗi tắm Phật để lấy nước uống. Thế là khỏi phải đi bác sĩ và khỏi phải tốn hao tiền mua thuốc.

Nếu bảo uống nước đó thì được may mắn, vì có Phật, Bồ Tát gia hộ như mẹ tôi nói, thì khi uống xong, tôi vào sòng bài đánh bài thua sạch túi, vậy sao Phật Bồ Tát không gia hộ cho tôi hốt tiền của thiên hạ. Hoặc tôi ra đường giựt đồ người ta, lúc đó bị cảnh sát bắt, sao Phật, Bồ Tát không gia hộ cho tôi khỏi bị cảnh sát bắt? Như vậy, uống thì uống mà nếu tôi làm việc bậy bạ phi pháp, thì tôi vẫn bị luật pháp trừng trị đích đáng. Còn nếu tôi không uống nước đó, mà tôi làm việc đàng hoàng, chánh đáng, không vi phạm luật pháp, thì thử hỏi có ai dám bắt bớ hành phạt tôi không? Ðiều buồn cười hơn nữa, là khi mẹ tôi đem nước tắm Phật về uống, thì cách mấy ngày sau, anh tôi bị bệnh. Như vậy, thì Phật và Bồ Tát không có linh thiêng gia hộ cho anh tôi rồi. Nói lên điều nầy, thì hơi khó nghe đối với những người mê tín, nhưng rất đúng với lý nhân quả Phật dạy. Thiết nghĩ, người Phật tử khi tin tưởng một điều gì, ta cần phải có sự sát nghiệm của lý trí. Không nên tin tưởng một cách mù quáng.

Như đã nói, nhờ có chút kiến thức học hỏi về Phật pháp, nên nay khi đọc tụng lại bài kệ tắm Phật, tôi mới thấy nghĩa lý của bài kệ thật quá thậm thâm vi diệu. Ngày xưa, tôi cũng đã từng tụng thuộc lòng bài kệ nầy như ăn cháo, nhưng thú thật, tụng thì tụng mà không hiểu mô tê chi cả. Bài kệ tắm Phật chỉ vỏn vẹn có 12 câu bằng chữ Hán Việt. Có lẽ, một phần vì chữ Hán Việt, nên khi tụng đọc ít có người hiểu được. Phần khác, vì nghĩa lý rất thâm huyền nên cũng thật khó hiểu. Nội dung bài kệ nêu ra hai phần rõ rệt: Bản môn và Tích môn hay còn gọi là Chơn đế và Tục đế.

Về phần bản môn, là nêu rõ lý pháp thân. Nói cách khác là chỉ rõ mỗi người đều sẵn có tánh Phật. Bản là gốc, là cái sẵn có không do tạo tác mà có. Ðó là chỉ cho chơn như. Một thực thể không nằm trong phạm trù duyên sinh nhân quả. Vì nó vượt ngoài đối đãi nhị nguyên. Một thực thể không hình, không tướng, mà trong Kinh Bát Nhã gọi là “Thật Tướng”. Nghĩa là tướng “Không” của vạn pháp. Cho nên thực thể nầy không sinh không diệt. Phần nầy, chúng ta thấy rất rõ trong 8 câu đầu của bài kệ:

“Ngã kim quán mộc chư Như Lai
Tịnh trí trang nghiêm công đức tụ
Ngũ trược chúng sanh linh ly cấu
Ðồng chứng Như Lai tịnh pháp thân
Già Da thành lý bất tằng sanh
Ta la thọ gian bất tằng diệt
Bất sanh bất diệt lão Cù Ðàm
Viễn ly huyễn tướng vô ngôn thuyết”

Cần nói rõ, sở dĩ có buổi lễ tắm Phật nầy, là vì người ta dựa theo truyền thuyết cho rằng, khi đức Phật ra đời, cung trời Phạm Thiên có mưa thơm tắm Phật. Do noi theo truyền thuyết đó, mà hằng năm trong ngày đại lễ Phật Ðản, có cử hành nghi thức tắm Phật. Và nghi thức nầy đã trở thành một tục lệ truyền thống.

Ðọc qua 8 câu trên, ta thấy hoàn toàn không có đề cập gì đến tắm ông Phật ra đời ở Ấn Ðộ cả. Mà tượng Phật sơ sanh chỉ là một biểu trưng nhằm thức nhắc người Phật tử chúng ta hãy xoay về nội tâm để mỗi người tự quán chiếu và dùng nước thanh tịnh để tắm cho ông Phật pháp thân của chính mình. Ðã là Phật pháp thân thì làm gì có hình tướng để chúng ta tắm rửa? Bởi Phật pháp thân vốn thanh tịnh sáng suốt, có cấu bợn gì đâu mà phải tắm? Ðây quả là mang một ý nghĩa biểu trưng, tức nương “Sự” để hiển “Lý” hay ngay nơi “Tướng” mà nhận lại “Tánh”. Nương ngón tay để thấy mặt trăng.

Ðó chẳng qua là chư Tổ khéo dùng phương tiện mượn hình ảnh tắm Phật để nói lên ý nghĩa siêu thoát. Vì mỗi người cần nên gột rửa những phiền não ô trược ở nơi tự tâm, hầu phát huy bản thể sáng suốt ở nơi tâm mình. Hai chữ “Như Lai” ở câu đầu của bài kệ, là chỉ cho thể tánh hay pháp thân bất sanh bất diệt. Chớ không phải là hình ảnh đức Phật ở bên ngoài. Nếu chỉ một bề hiểu tắm Phật ở bên ngoài, thì chúng ta bị dính kẹt ở nơi “Sự” mà không hiển được “Lý”. Ðó là chúng ta mắc vào cái lỗi thiên kiến. Phật dạy “Sự và Lý” phải viên dung vô ngại.

Có xa lìa ngũ trược tức năm thứ ruỗng mục suy tàn, thì chúng ta mới nhận được thể tánh, tức đồng chứng pháp thân. Nói một cách dễ hiểu hơn, khi nào phiền não không còn, thì chừng đó Phật tánh sẽ hiện bày. Mây tan thì trăng sáng, sóng dừng thì nước lặng. Ðiều quan trọng là làm cho mây tan và sóng dừng. Còn trăng và nước vốn sẵn có, không cần phải tìm cầu. Mây và sóng là những hiện tượng phù hư giả dối không thật. Vì chúng không thật nên tan biến bất thường. Vô minh phiền não cũng thế. Vì phiền não không có thật tánh, nên ta mới chuyển hóa chúng được. Trong Chứng Ðạo Ca Ngài Vĩnh Gia Huyền Giác có nói:

Vô minh thực tánh tức Phật tánh
Ảo hóa không thân tức pháp thân.

Ðó là cái thấy bằng tuệ giác của người chứng đạo. Không phải cái thấy tầm thường như chúng ta. Cái thấy của chúng ta là cái thấy bằng nghiệp thức. Do đó, nên lúc nào chúng ta cũng bị kẹt mắc trên hữu tướng. Vì dính mắc trên hữu tướng, nên không thấu suốt được vô tướng. Chỉ thấy vô minh mà không thấy được Phật tánh. Thực tế, thì vô minh và Phật tánh không hai. Nhưng bảo rằng một cũng không đúng. Ðó là lý “Bất Nhị Pháp Môn” mà trong Kinh Duy Ma Cật đã nói. Nói một là sai mà nói hai thì không đúng. Rời cái thân ảo hóa ngũ uẩn nầy, mà tìm cái pháp thân, thì làm sao có được? Ngay nơi cái thân ảo hóa nầy mà nhận ra cái không thân hay pháp thân. Lý nầy thật không phải dễ hiểu. Như toàn nước chính là sóng. Nhưng thực tế, thì sóng không phải là nước. Nhưng nếu rời nước thì làm gì có sóng? Khi sóng đang nổi lên, thì nước cũng không rời sóng. Cho nên mới nói toàn sóng chính là nước. Câu nói phiền não tức Bồ đề hay sanh tử tức Niết bàn là thế. Nói cách khác, phiền não dụ như bóng tối, bóng tối vốn không có thực thể, nên khi có ánh sáng thì bóng tối không còn. Vô minh hết thì tánh giác hiện bày.

Bốn câu kế là nói lên cái lý bất sanh bất diệt. Sanh mà không thật sanh, diệt mà không thật diệt. Sanh diệt, diệt sanh giống như trò ảo hóa. Khác nào như hoa đốm giữa hư không. Hoa đốm vốn không có trong hư không, nhưng vì bị bệnh nhặm mắt mà thấy in tuồng như có hoa đốm. Cũng thế, pháp thân vốn không sanh, không diệt, tại vì mê lầm nên chúng ta mới thấy có sanh, có diệt. Ðến chỗ cứu cánh tuyệt đối, thì không thể dùng ngôn ngữ để luận bàn. Có luận bàn ngôn thuyết thì đó chỉ là làm cái chuyện trò đùa hư huyễn mà thôi. Ðó là hết 8 câu nói vể Bản môn hay Chơn đế.

Bốn câu kệ tiếp, nói về Tích môn :

Kim triêu tứ nguyệt thập ngũ nhựt
Tịnh Phạn vương cung sanh Tất Ðạt
Cửu long phúng thủy thiên ngoại lai
Cử bộ liên hoa tùng địa phát.

Tích môn là nói về những hiện tượng xảy ra theo thế tục đế. Nghĩa là, đức Phật sanh ra nhằm ngày trăng tròn tháng tư ở trong cung vua Tịnh Phạn tên của Ngài là Tất Ðạt Ða. Trong khi Phật ra đời có chín con rồng phun nước và chư thiên hiện đến tung hoa chào mừng. Khi đó, đức Phật đi bảy bước và mỗi bước đèu có hoa sen từ đất hiện ra nở dưới chân Ngài. Ðó là diễn tả những hiện tượng khi Phật ra đời. Tuy nhiên, trong phần tích môn nầy, ta lưu ý là hiện tượng Phật bước trên hoa sen. Tuy rằng đây là một truyền thuyết, nhưng nó mang một ý nghĩa tiêu biểu rất siêu thoát. Hoa sen có nhiều đặc tính, nhưng đặc tính tiêu biểu nhất, đó là mang yếu tính thanh tịnh. “Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”. Ðó là nói lên cái ý nghĩa cư trần bất nhiễm trần vậy.

Tóm lại, khi múc nước tắm Phật, ta nên giữ chánh niệm và quán chiếu thật sâu vào nội tâm. Ðể nhận diện từng tâm niệm dấy khởi của mình và mỗi một muỗng nước thanh tịnh từ trên vai Phật tưới xuống, ta coi như trút bỏ những thứ phiền não cáu bợn rối rắm trong lòng, theo dòng nước thanh tịnh mà trôi chảy đi hết. Ðó là những thứ phiền não tham lam, sân hận, tật đố, si mê, ngã mạn v.v… tất cả đều được chuyển hóa thành những dòng nước suối nguồn thanh tịnh, từ bi, trí huệ, vị tha, bình đẳng …

Những dòng nước thanh tịnh nầy luân lưu theo dòng thời gian chảy xuyên suốt từ Phật truyền đạt đến chư Tổ và tới tất cả chúng ta. Ðó là những dòng nước thanh tịnh để rửa sạch những ô nhiễm ngũ dục lục trần. Tâm Phật và tâm ta cùng hòa quang trong cùng một nhịp điệu phá tan những mê lầm từ vô lượng kiếp. Hãy nhìn vào tượng Phật sơ sanh đang hiện diện trước mắt ta, như thầm nhắc nhở ta phải luôn luôn sống trong tỉnh thức. Có hằng sống trong tỉnh thức thì đời ta mới có an lạc và giải thoát. Ðó là ta khéo biết trở về nhận lại cái kho tàng quý báo ( bảo sở ) vô giá của ta. Mà lâu nay, vì si mê tăm tối, ta mãi đắm nhiễm theo duyên trần, rồi tạo ra bao nhiêu thứ nghiệp ác, để rồi phải chịu trầm luân mãi trong vòng sanh tử khổ đau.

Nay đây, một duyên lành rất lớn là ta được múc nước thanh tịnh để tắm Phật. Phật bên ngoài cũng như ông Phật trong tâm ta. Mỗi muỗng nước ta tưới là ta quyết tẩy sạch trôi đi những não phiền cáu bợn, hầu để cho ông Phật pháp thân của ta hiện bày. Ðó là ý nghĩa Phật xuất thế. Cứ mỗi một niệm mê lầm là có một niệm giác chiếu soi. Vô minh ở đâu thì có Phật xuất thế ở đó. Hãy để cho ông Phật tự tâm ta ra đời trong mọi thời gian và nơi chốn. Có thế, thì đời ta mới thực sự chấm dứt khổ đau. Và ta hãy cương quyết phát đại thệ nguyện:

Chúng sanh vô biên thệ nguyện độ
Phiền não vô tận thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
 
Chùa Quang Minh


©2010 -2024  Chùa Bửu Minh | Homepage