NSGN - Trong số báo này, chủ đề đặt ra là thú vật có thể hiểu Phật pháp
không. Tất nhiên thú vật không có cấu trúc não bộ như con người, nên nó
không thể suy nghĩ, hiểu biết giống như con người. Nhưng có thể khẳng
định rằng thú vật có thể cảm nhận được năng lượng từ bi, bao dung, chăm
sóc, chở che…
của con người dành cho nó. Và pháp Phật nếu cất trong tủ
sách, không có người đọc và triển khai thì không thể mang lại lợi ích
gì. Nhưng thông qua lời thuyết giáo, hay lời kinh tụng của người tu,
pháp Phật cũng tác động tích cực chẳng những cho con người mà cả loài
thú hay cỏ cây hoa trái cũng tiếp nhận được sự lợi lạc.
Thật vậy, điều này được thể hiện rõ nét trong cuộc đời hoằng hóa
độ sanh của Đức Phật. Trong kinh ghi rõ sau khi độ năm anh em Kiều Trần
Như đắc quả A-la-hán, Đức Phật đã một mình đi đến tu viện của Ưu Lầu
Tần Loa Ca Diếp nổi tiếng nuôi rắn hổ mang và ông có khả năng sai khiến
rắn hại người.
Vừa trông thấy Phật, ông quốc sư này đã thầm nghĩ Sa-môn Cù Đàm tới số
rồi, đến đây nộp mạng, nhưng Đức Phật vẫn thanh thản xin tá túc một đêm.
Ông mới xếp đặt cho Phật ở trong hang động và đặc biệt hơn nữa, ông đã
sai con rắn hổ mang chúa nửa đêm bò vào hại Phật.
Nhưng đạo lực của Đức Phật đã tỏa ra năng lượng từ bi cao tột tạo thành
lực cảm hóa con rắn chúa một cách kỳ diệu. Nó không hại Phật mà còn
ngoan ngoãn nằm yên trong bình bát của Phật một cách gọn gàng, vừa vặn!
Không cần phải nói, Ưu Lầu Tần Loa Ca Diếp đã thất kinh hồn vía trước
đạo lực của Đức Phật và tự động thốt lên rằng quả tình Phật là vị Thánh.
Sau đó, ông và hai người em là Già Da Ca Diếp, Na Đề Ca Diếp cùng 1.000
đồ đệ đã xin xuất gia làm đệ tử Phật.
Kết quả này thể hiện rõ rằng năng lượng từ bi của Đức Phật đã trực tiếp
tác động con rắn chúa và dập tắt ý sát hại của nó, đồng thời năng lượng
tha thứ, bao dung của Đức Phật cũng tạo thành một từ trường thánh thiện,
giải thoát bao trùm tu viện chuyên luyện bùa chú hại người và chuyển
hóa tâm thù hận, đố kỵ của Ưu Lầu Tần Loa Ca Diếp quay về tu theo Phật.
Thử nghĩ trong môi trường cực ác này, nếu không có lực tác động sâu sắc
của năng lượng từ bi cao tột từ Phật cảm hóa thì đã không còn Phật hiện
hữu trên cõi đời này.
Hoặc một sự kiện khác nữa được ghi trong kinh điển cũng thể hiện sâu sắc
rằng năng lượng từ bi của Đức Phật đã khiến đàn voi say của vua A Xà
Thế phải phủ phục dưới chân Ngài và cũng chuyển hóa được tâm ác độc của
ông vua này trở thành người hộ pháp đắc lực.
Nói về năng lượng từ bi, năng lượng giải thoát, hay vô số năng lượng
hoàn toàn thánh thiện của Đức Phật, hay của Phật pháp, nhiều người
thường cho rằng năng lượng là cái gì cao siêu huyền bí không có được.
Nhưng khoa học ngày nay mà người tiêu biểu là tiến sĩ, bác sĩ tâm thần,
nhà nghiên cứu nhận thức và giảng viên tâm linh nổi tiếng người Mỹ, ông
David R. Hawkins (1927-2012) đã chứng minh rằng mỗi người có mức năng
lượng, hay còn gọi là tần số rung động khác nhau, tùy theo cảnh giới
tinh thần của họ trong khoảng từ 1 đến 1000. Thí dụ người vui vẻ, thanh
tịnh có tần số rung động là 540, người oán ghét, thù hận có tần số rung
động là 150…
Cũng theo Tiến sĩ Hawkins, tần số rung động cao nhất mà ông quan sát
được là 700. Riêng những người tu giải thoát, đắc đạo, tràn đầy từ bi
thì năng lượng của họ rất cao, trên 700 và khi họ xuất hiện, tạo thành
lực ảnh hưởng tốt đẹp tới từ trường xung quanh. Cũng vậy, khi người có
tâm xấu xuất hiện, chẳng những họ làm tổn hại bản thân mà còn làm cho từ
trường xung quanh đó bị ô nhiễm, biến đổi theo hướng xấu.
Ông Hawkins cũng cho biết hầu hết phim ảnh ngày nay sẽ làm suy yếu người
xem vì chúng đưa ra các mức năng lượng xuống dưới 200. Và ngược lại,
những quyển sách, hay tri thức mang tần số rung động cao như Tâm kinh và
kinh Pháp hoa đều 780, kinh Kim cang 700, giáo lý Thiền 795…
Trở lại bài pháp về lực tác động của năng lượng hay tần số từ bi, thanh
tịnh… tỏa ra từ Đức Phật, chúng tôi xin nhắc lại câu chuyện ghi trong
kinh Nguyên thủy rằng một hôm Đức Phật đi hóa duyên đến một nhà nọ, con
chó trong nhà trông thấy Phật đứng trước cửa, nó đã sủa dữ dội. Phật nhẹ
nhàng bảo nó rằng ngươi vì tiếc của mà phải tái sanh làm con chó để giữ
của trong nhà này, ngươi vẫn chưa chán sợ cái nghiệp này hay sao. Con
chó nghe Phật nói vậy, nó không sủa nữa, nằm im, vẻ mặt buồn rầu.
Người con trai trong nhà hỏi Phật vì sao Ngài biết như vậy. Ngài cho
biết con chó này là cha của ông, vì lúc sống có chôn giấu hũ vàng ở đầu
giường mà chưa kịp nói cho ông biết, nên nó sợ mất hũ vàng mới đầu thai
vào làm con chó để tiếp tục canh giữ vàng. Người con nghe Phật dạy như
vậy mới cho đào lên thì quả đúng là có hũ vàng chôn ở đầu giường. Và ít
lâu sau, nhờ năng lượng từ bi của Đức Phật, năng lượng của pháp Phật
khai thị mà nó đã thoát kiếp làm chó.
Trong cuộc đời giáo hóa dộ sanh, Đức Phật đã có lần rời bỏ Tăng chúng,
Ngài vào rừng ở, để nhắc nhở họ không được kiêu mạn, phải nỗ lực tu bồi
phước đức trí tuệ mới thực sự là trưởng tử của Như Lai. Phật sống một
mình trong rừng, nhưng năng lượng từ bi của Phật đã cảm hóa con voi già
ra suối lấy nước cúng Phật và con khỉ già dâng trái cây cho Phật mỗi
ngày.
Ngoài ra, cũng có câu chuyện về vua Lương Võ Đế rất kính trọng Hòa
thượng Chí Công, nhưng bà hoàng hậu lại rất ghét Hòa thượng này. Vì
trong kiếp trước, tiền thân của hoàng hậu là con dế mèn ở chùa được vị
trụ trì quan tâm. Nhưng có chú tiểu là tiền thân của Hòa thượng Chí Công
vì tiếng dế gáy làm mất ngủ và thức dậy trễ giờ công phu, chú bị vị trụ
trì rầy. Chú tiểu giận quá mới ngắt đầu con dế. Một hôm, vị trụ trì đi
xa về, không nghe tiếng dế gáy, Ngài ra vườn thấy xác con dế. Ngài đã
chú nguyện cho con dế và chôn nó. Con dế nhờ nghe kinh hàng ngày, nên
pháp lực và công đức lực của vị trụ trì đã trợ duyên cho nó được tái
sanh làm hoàng hậu.
Còn một câu chuyện về cuộc đời hành đạo của Tổ Huệ Đăng tu ở núi Thiên
Thai, Bà Rịa, Vũng Tàu. Ngài ở trong hang núi thì có con cọp từ bên
ngoài đi vào hang, nó đứng yên, nhìn Ngài như muốn hỏi tại sao lại ở
trong hang của tôi. Tổ nhẹ nhàng bảo nó rằng toàn khu rừng núi này là
lãnh địa của ông, ông muốn ở chỗ nào cũng được. Vậy ông nhường cho tôi
cái hang này để tôi ở đây tu. Năng lượng từ bi của Tổ đã khiến con cọp
rời khỏi hang một cách đơn giản giống như hai người bạn thân hiểu nhau,
thương nhau, giúp đỡ nhau. Và ông chúa sơn lâm đã đi luôn, không bao giờ
trở lại nữa.
Riêng tôi cũng đã thể nghiệm rõ rằng năng lượng, hay tần số từ bi, giải
thoát, đức hạnh… của người tu thực sự tác động mãnh liệt đến loài thú.
Nhất là đối với những con thú mới bỏ thân người và bị đọa làm thú vật
thì tất cả những gì của con người còn lưu lại trong nghiệp thức sau khi
chết vẫn còn sống động mạnh mẽ, nên nó dễ dàng cảm nhận được năng lượng
từ bi, an lạc, giải thoát của người tu mà nó có duyên được gần gũi,
chúng ta tạm gọi là nó “hiểu” được người yêu thương nó.
Đó là một lần tôi sang Pháp ở chùa Trúc Lâm, Paris với cố Hòa thượng
Phước Đường. Trong chùa có nuôi con chó, mỗi khi tôi đi giảng pháp về,
nó đều đứng đợi tôi trước cửa phòng và chồm lên mở cửa cho tôi. Trông nó
thật dễ thương. Một hôm, tôi nhìn nó mà nói rằng “Anh ráng ăn chay để
khỏi làm phiền quý thầy mua đồ mặn cho anh, để anh đỡ tổn phước”. Tôi
chỉ nói một câu đơn giản vậy thôi. Thế mà sau đó, nó nhịn ăn và đã chấm
dứt được cuộc sống súc vật. Rõ ràng nó đã cảm nhận được lời pháp mà tôi
khuyên với tất cả tâm yêu thương nó.
Hoặc câu chuyện mà cố Hòa thượng Tắc Ngộ đã kể về con chó ở chùa Kim
Cang. Nhà nuôi nó ở gần chùa và nó đã bỏ nhà sang chùa ở. Người chủ đến
chùa dắt nó về cho nó ăn nhiều thịt hơn để dụ nó đừng qua chùa nữa.
Nhưng nó lại trốn qua chùa và nhất định không chịu về nhà chủ nữa. Điều
đặc biệt là nó rất hiền, ăn chay dễ dàng và cứ đến giờ chư Tăng tụng
kinh thì nó lên chánh điện nằm nghe kinh, xong thời kinh tự động đi
xuống.
Có thể hiểu rằng con chó này đã cảm nhận được từ trường an lạc ở chùa và
nó cũng trực nhận được âm thanh giải thoát của lời kinh mà chư Tăng
tụng mỗi ngày. Nó không nghe được tiếng ngưởi, nhưng nó nghe pháp bằng
tâm và cảm thấy thích sống trong chùa, nghĩa là sống trong môi trường
thanh tịnh, an lạc mà nó có đồng tần số.
Đức Phật là đấng cha lành của muôn loài. Tâm từ bi của Phật bao phủ muôn
loài. Tuệ giác vô thượng của Phật tỏ rõ quy luật vận hành của muôn loài
trong Pháp giới. Pháp Phật có công năng rửa sạch phiền não, nhiễm ô của
muôn loài.
Vì vậy, Đức Phật đã khẳng định rằng tất cả chúng sanh đều có Phật tánh,
đều có thể thành Phật. Tuy nhiên, Ngài cũng xác định rằng trong các
loài, chỉ loài người có đủ điều kiện tối ưu để đạt đến quả vị Phật. Thật
vậy, với cấu trúc đặc biệt về thân vật chất và tinh thần là vốn quý báu
giúp con người phát huy đạo đức, trí tuệ để tiến đến quả vị Vô thượng
Bồ-đề. Còn các loài khác tuy có hạt giống Phật, nhưng không có được sự
đặc thù của thân người, nên các loài, kể cả chư Thiên nhiều phước báu
hơn loài người mà muốn tu thành Phật cũng phải tái sanh làm người để từ
vị trí con người tiến tu lên.
Dĩ nhiên loài thú còn rất nhiều khó khăn hơn nữa trong việc tu hành,
nhưng nếu chúng có được phước duyên gần gũi chư Tăng, Phật tử, hay ở gần
chùa, thì nương vào từ trường thanh tịnh của Tam bảo mà khơi gợi cho
chúng nhớ lại những điều thiện lành chúng cũng từng có được trước khi bị
đọa làm thú vật, sẽ giúp chúng chuyển hóa nghiệp súc sanh, trở lại làm
người.
Nhận thức nỗi thống khổ vô cùng trong kiếp sinh tử luân hồi và chúng ta
lại được phước duyên làm người và được tu học Phật pháp là hai điều rất
khó có, cần phải trân trọng và giữ gìn, đừng phạm tội để đọa xuống ba
đường ác. Cần cố gắng nỗ lực thể hiện pháp Phật trong cuộc sống để phát
triển đức hạnh và tuệ giác cho đến ngày thành tựu quả vị Phật.
HT.Thích Trí Quảng
http://giacngo.vn/nguyetsan/chuyende/2017/11/30/7266DA/