Do vậy, vẫn có người nghĩ
là tuổi già là một thuận duyên để tu tập Phật pháp. Người ít tuổi ít đến chùa
có lẽ vì không có thuận duyên đó. Vậy thì, cứ chờ đến khi lớn tuổi người ta sẽ
đến với Phật giáo để tu tập?
Thực sự không phải như
vậy. Đức Phật coi tuổi già là một chướng duyên để tu tập. Trước hết, tu tập là
một quá trình đòi hỏi nhiều thời gian, trong khi ở tuổi già, thời gian không
còn. Tu tập cũng đòi hỏi sức khỏe, điều mà tuổi già hết sức hạn chế. Nếu nghĩ rằng
vẫn nên an tâm với hiện tượng người già đến chùa đông đảo, vì sớm muộn gì đến
già cũng sẽ tu, thì điều đó không phù hợp với đạo Phật chút nào!
Đối với vấn đề này, người
ta thường dẫn ý một vị tổ, rằng hãy xem mộ phần của những kẻ đầu xanh (tức chưa
kịp tu).
Nhưng hơn hết, Đức Phật
cũng nói rõ về vấn đề này. Ngài khẳng định tu là một cơ hội cho người trẻ. Nếu để cơ hội đó trôi qua thì
là điều đáng tiếc. Còn khi đến tuổi già thì thuận duyên đã trôi qua, cơ hội đã
mất. Tuổi càng cao thì thuận duyên tu có kết quả càng ít dần đi.
Nội dung như trên được
trình bày rõ qua Kinh số 1162, Kinh Tạp A
Hàm, tập IV, số thứ tự 20, bản dịch của Hòa thượng Thích Thiện Siêu và Hòa
thượng Thích Thanh Từ, Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành năm 1995.
“KINH 1162. VỢ CHỒNG GIÀ
Tôi nghe như vầy:
Một thời Đức Phật ở trong vườn Cấp cô độc, rừng cây Kỳ-đà,
tại nước Xá-vệ. Bấy giờ sáng sớm Thế Tôn đắp y, ôm bát vào thành Xá-vệ khất
thực, có Tôn giả A-nan đi theo sau Thế Tôn.
Khi ấy có hai lão nam nữ là vợ chồng, tuổi đã cao, các căn
đã chín, lưng còng như móc câu. Họ đến đầu ngõ hẻm, chỗ đốt phân rác, cùng ngồi
chồm hỗm hơ lửa. Thế Tôn thấy hai vợ chồng già này, tuổi đã cao, các căn đã
chín, lưng còng như móc câu, giống như hai con hạc già nhìn nhau với tâm dục
nhiễm. Thấy rồi, bảo Tôn giả A-nan:
“Ông có thấy hai vợ chồng kia, tuổi đã cao, các căn đã chín,
lưng còng như móc câu, cùng ngồi chồm hỗm hơ lửa, giống như hai con hạc già
nhìn nhau với tâm dục nhiễm chăng?”
A-nan bạch Phật:
“Bạch Thế Tôn, đúng vậy.”
Phật bảo A-nan:
“Hai vợ chồng già này, vào thời thiếu niên, thân thể tráng
kiện, nếu siêng năng tìm cầu tài vật, cũng có thể là gia chủ giàu có nhất trong
thành Xá-vệ. Còn nếu họ cạo bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chánh tín xuất gia học
đạo, không nhà, tinh cần tu tập, thì cũng có thể chứng được thượng quả đệ nhất
A-la-hán. Nếu ở giữa phần hai cuộc đời còn tráng kiện, siêng năng tìm cầu tài
vật thì cũng có thể trở thành người giàu thứ hai trong thành Xá-vệ. Nếu họ cạo
bỏ râu tóc, mặc áo ca-sa, chánh tín xuất gia học đạo, không nhà, cũng có thể
chứng được quả A-na-hàm. Nếu ở giữa phần ba trung niên, siêng năng tìm cầu tài
vật cũng có thể là người giàu thứ ba trong thành Xá-vệ. Nếu họ cạo bỏ râu tóc
mặc áo ca-sa, chánh tín xuất gia học đạo, không nhà, cũng có thể chứng được quả
Tư-đà-hàm. Nếu ở phần thứ tư, khi tuổi già, siêng năng tìm cầu tài vật cũng có
thể là người giàu thứ tư trong thành Xá-vệ. Nếu họ cạo bỏ râu tóc mặc áo ca-sa,
chánh tín xuất gia học đạo, không nhà, cũng có thể chứng được quả Tu-đà-hoàn.
Nhưng ngày hôm nay, họ tuổi già, các căn suy yếu, không có tiền của, không có
phương tiện, không có khả năng; lại không thể kham năng nếu có tìm kiếm tiền
của, cũng không có cách nào để chứng đắc Pháp thượng nhân được.”
Bấy giờ, Thế Tôn liền nói kệ:
Vì không hành phạm hạnh;
Nên niên thiếu
không của;
Suy nghĩ việc
xa xưa,
Ngủ đất như cung cong.
Không tu hành phạm hạnh;
Niên thiếu không tài sản;
Giống như chim hạc già,
Chờ chết nơi đầm hoang.
Phật nói kinh
này xong, Tôn giả A-nan nghe những gì Phật dạy, hoan hỷ, phụng hành.”
MT