Bất cứ một con người bình thường nào, cho vấn đề ấy, có thể
thực tập rèn luyện tâm và điều này cuối cùng sẽ chứng tỏ là rất hữu dụng.
Một
cách căn bản đây là những gì mà Tám Đề Mục nói đến. Chúng dạy chúng ta đối phó với những cảm xúc
tiêu cực như thế nào và tiếp theo sau sẽ
cải thiện hay chuyển hóa tâm thức chúng
ta. Như một hành giả, chúng ta phải chú
ý đến tâm chúng ta để cố gắng kiểm soát nó một cách liên tục. Chúng ta phải cố gắng loại trừ tất cả những cảm
xúc tiêu cực và phát triển những cảm xúc tích cực - vô hạn lượng - đặc biệt trong sự thực hành
Phật Giáo, vì thế một số người nói rằng Đạo Phật là khoa học về tâm.
Mọi
người muốn hạnh phúc; không ai muốn đau khổ.
Nhiều rắc rối chung quanh chúng ta là vọng tưởng tinh thần của những thứ
tiêu cực hay bất hạnh nào đó. Nếu chúng
ta phân tích thái độ tinh thần của chính chúng ta, chúng ta có thể thấy nó thật
không thể chịu nổi. Do vậy, một tâm quân
bình hoàn hảo là rất hữu ích và chúng ta phải cố gắng để có một thể trạng tinh
thần vững vàng.
Mọi
người muốn có một thân thể khỏe mạnh và không ai muốn bệnh hoạn. Tôi cũng là một người không muốn rơi vào tình
trạng bệnh hoạn nhưng thường bị cảm lạnh
- một cách đặc biệt khi tôi viếng Đạo Tràng Giác Ngộ - Bodhgaya. Hầu như lần nào ở đấy, sự gia hộ quá rộng lớn
khiến tôi luôn luôn bị sốt! Nhưng sự kiện
vẫn hiện hữu là mọi người muốn có sức khỏe tốt, và đấy là một ý nghĩa quan trọng
cho việc đạt đến một tâm ổn định.
Việc
rèn luyện tinh thần là thiết yếu cho sức khỏe lành mạnh. Sức khỏe
tốt lành và ổn định tâm biểu hiện cho một đời sống tốt đẹp và hạnh phúc hơn và
một tương lai ý nghĩa. Mặc dù chúng ta
có thể ở trong một môi trường thù nghịch, nhưng nếu thái độ tinh thần của chúng
ta vững vàng và ổn định, sự thù nghịch sẽ không là nguyên nhân cho nhiều sự quấy
rầy. Không có sự ổn định tinh thần nội tại,
hay thái độ tinh thần đúng đắn, chúng ta không thể vui vẻ, tĩnh lặng, hay bình
an, ngay cả khi chúng ta được vây quanh với những bạn bè thân thiết hay những
tiện nghi bậc nhất. Đấy là tại sao rèn
luyện tâm là ưu việt và không nên được xem như một vấn đề tôn giáo. Một số kỷ thuật hay phương pháp cho việc rèn
luyện tâm phải là một bộ phận trong đời sống hàng ngày của mọi người. Tâm thì không màu sắc, không hình tướng và
khó khăn để xác định. Tuy thế, nó thật
là năng lực. Đôi khi dường như khó để kiểm
soát, thay đổi, và kiểm soát. Tôi nghĩ
tùy thuộc nhiều vào thời gian, ý chí, quyết tâm và tuệ trí. Nếu tôi đã có quyết tâm và tuệ trí - tuệ trí
hàm ý kiến thức - vấn đề rồi thì là việc rèn luyện tâm như thế nào. Cuối cùng với sự trôi qua của thời gian, tâm
chúng ta có thể thay đổi và cải thiện.
Thí dụ, với cha mẹ tôi, mẹ tôi là người cực kỳ tế nhị và rất kiên nhẫn,
trái lại cha tôi là người rất dễ nổi nóng.
Trong thời thơ ấu của tôi, tôi rất gần gũi với cha tôi, và vì thế có xu
hướng hơn với giận dữ. Trong thời gian
sau này của đời tôi, tôi thân cận với mẹ tôi hơn và do thế tĩnh lặng hơn nhiều. Tôi học hỏi từ cả hai người. Một cách truyền thống, người Tây Tạng tin rằng những người đến từ vùng Amdo[1]
là dễ giận dữ và thẳng thắn. Vì tôi thuộc
vùng ấy, tôi có một biện hộ hợp lý cho sự giận dữ của tôi.
Chúng
ta có thể rèn luyện tâm của chúng ta bằng việc phân tích những nhược điểm của
giận dữ cũng như từ những kinh nghiệm của người khác. Cũng thật hữu ích để nhìn vào lịch sử. Bất cứ khi nào tôi thẩm tra thảm họa của con
người, tôi thấy rằng trong hầu hết mọi trường hợp nó là kết quả từ thái độ của
con người - những cảm xúc tiêu cực như giận dữ, thù hận, ganh tỵ và tham lam
quá độ. Tất cả những thứ tốt đẹp là những
kinh nghiệm xây dựng, hạnh phúc hơn của nhân loại, hầu như được thúc đẩy bằng
việc tôn trọng quyền của người khác và quan tâm đến sự cát tường của người khác
- bi mẫn, từ ái và ân cần.
Một
cuộc khảo rất xuyên suốt về những kinh nghiệm và sự kiện quá khứ của nhân loại,
và sự thực tập hằng ngày của chúng ta là rất cần thiết để đem đến sự thay đổi
và cải thiện. Con người chúng ta là giống
nhau trong những khát vọng. Đây là tại
sao rèn luyện tâm là quan trọng.
Tám
Đề Mục Thi Kệ giải thích tầm quan trọng của lòng vị tha, và việc duy trì nó như
thế nào khi chúng ta trải qua những hoàn cảnh khó khăn trong đời sống hàng ngày
của chúng ta. Đối với con người chúng ta
cũng như thú vật, nền tảng của xã hội là tình cảm hay tình thương. Trong thời kỳ khi chúng ta ở trong bào thai của
mẹ, sự ổn định và tĩnh lặng tinh thần của bà mẹ là rất quan trọng cho sự phát
triển tinh thần của đứa trẻ chưa sinh.
Cũng thế, những tuần lễ đầu tiên sau khi sinh là thời điểm quan yếu cho
việc phát triển não bộ. Trong thời kỳ ấy,
điều cực kỳ quan trọng là có sự chạm xúc thân thể của bà mẹ. Điều này cho thấy rằng tự điều kiện thân thể
cần hơi ấm và tình cảm của người khác.
Hành động của đứa trẻ làm sau khi sinh ra là bú sửa. Cho và nhận sửa chắc chắn không phát sinh từ
thù hận hay cảm giác tiêu cực. Mặc dù
vào lúc ấy tâm tư đứa trẻ không rõ ràng và không ý tưởng rõ ràng về mẹ nó, nhưng
sự ràng buộc hay cảm giác gần gũi chắc chắn được thiết lập. Tuy nhiên, nếu tâm hồn bà mẹ có sự giận dữ
hay những cảm xúc tiêu cực nào đó đối với đứa trẻ, sửa có thể không tuôn
ra. Chính là tình cảm sâu xa và một cảm
giác thân mật đối với đứa trẻ đã cho phép sử sửa tuôn tràn một cách tương ứng. Và hướng về bà mẹ vì sửa là hành động đầu
tiên như một con người.
Trong
vài tháng và vài năm tiếp theo, chúng ta lệ thuộc sâu đậm trên những người
khác, chủ yếu là cha mẹ hay người bảo dưỡng.
Không có sự ân cần và trách nhiệm, đứa trẻ không thể sống còn. Như
những học sinh, chúng ta thấy rằng nếu giáo viên tình cảm và gần gũi
với chúng
ta, thế thì những bài học cũng như vị giáo viên ấy để lại ấn tượng lâu
dài đối
với chúng ta.
Trong
cuộc sống, hết lần này đến lần khác, chúng ta cần phải đến thăm bác sĩ ngay cả
chúng ta không muốn thế. Mặc dù bác sĩ
có thể có phẩm chất cao, nhưng nếu khuôn mặt vị bác sĩ ấy cứng ngắt và đánh mất
nụ cười, chúng ta cảm thấy hơi khó chịu.
Nếu vị bác sĩ ấy biểu lộ sự quan tâm chân thành về sức khỏe chúng ta và
tình cảm, chúng ta cảm thấy dễ chịu.
Khi
chúng ta già cả, chúng ta lệ thuộc sâu đậm một lần nữa vào tình cảm và sự ân cần
của người khác. Đây là tự nhiên của con
người. Vì loài người là những tạo vật xã
hội, nên chúng ta lệ thuộc sâu xa vào những người khác nhằm để sồng còn.
Ngay
cả những thú vật nhỏ bé và côn trùng như
ong và kiến cũng có một loại bẩm sinh xã hội nào đó. Chúng có một cảm nhận trách nhiệm to lớn và
hoạt động song hành với nhau. Nếu chúng
ta nhìn vào những con ong, chúng ta thấy rằng chúng hoạt động trên căn bản của
sự phối hợp mặc dù chúng không có tôn giáo, hiến pháp hay luật lệ. Hình thức và cách sống tự nhiên của chúng đòi
hỏi chúng phải làm việc với nhau; bằng khác đi, chúng không thể tồn tại. Con người tự cho là siêu việt nhưng trong thực
tế, đôi khi chúng ta thật thấp kém so với những côn trùng bé nhỏ này. Hoàn cảnh căn bản của chúng ta đòi hỏi chúng
ta phải sống với nhau, và vì thế, chúng ta phải làm việc với nhau. Đấy là luật lệ tự nhiên nhưng đôi khi chúng
ta hành động trong một tư thái hoàn toàn trái ngược.
Theo
Phật Giáo, cây cỏ không có tâm hồn hay ý thức.
Như một tu sĩ Đạo Phật, tôi nói chúng không có ý thức, nhưng tôi không
biết, thật khó để nói. Tôi nghĩ chúng ta
cần phải khảo sát xa hơn. Một số người
nói rằng cây cỏ có một loại năng lực cảm giác hay nhận thức nào đó. Ngay cả không có ý thức hay tâm ý, chính sự tồn
tại của chúng đặt căn bản trên sự hợp tác của những phân tử và tế bào. Mỗi phần tử có một nhiệm vụ hay vai trò đặc
biệt và tất cả mọi phân tử hoạt động với nhau cho phép cây cỏ tồn tại và phát
triển. Tương tự thế, chức năng và sự tồn
tại của thế giới, của chính hành tinh, ngay cả vũ trụ lệ thuộc vào sự hợp tác.
Những
bộ phận khác nhau của thân thể con người hoạt động với nhau, cho phép chúng ta
thể hiện chức năng một cách hiệu quả. Sự
tồn tại và sống còn của chúng ta lệ thuộc trên sự cộng tác và phối hợp của những
bộ phận này. Thí dụ hãy lấy gia đình
loài người. Trong sự vắng bóng của hợp
tác và hiểu biết, cha mẹ và con cái luôn luôn đấu đá với nhau. Điều ấy cũng đúng đối với sự cải vả giữa đôi
lứa. Ly dị xảy ra sau đó và không có sự
bình an hay hạnh phúc tồn tại. Hôn nhân
bị hủy hoại. Hợp tác là khẩn thiết cho một
gia đình, thân thể, xã hội và quốc gia mạnh
mẽ.
Chúng
ta phát triển sự hợp tác như thế nào? Bằng
sức mạnh? Không thể được! Vậy sự lựa chọn là gì? Những hành vi tự nguyện, lòng vị tha và việc
biểu lộ sự quan tâm đến lợi ích và quyền lợi của người khác. Những điều này không nhất thiết là thiêng
liêng; chúng là sự quan tâm của chúng ta bởi vì sự sống còn của chúng ta tùy
thuộc vào nó. Thí dụ, nếu chúng ta quan
tâm về người khác và thân thiết chân thành với họ, thế thì người khác cũng sẽ
đáp ứng lại một cách tương ứng.
Tôi
thích mĩm cười và cười lớn. Nếu chúng ta
muốn có nhiều nụ cười mĩm trong cuộc sống thì chúng ta phải tạo nên những điều
kiện thích hợp cho nó hiện diện. Có nhiều
loại mĩm cười khác nhau. Những nụ cười
xã giao hay mĩa mai chỉ tạo nên không khí khó chịu và phát sinh sự nghi ngờ,
trái lại một nụ cười chân thành làm cho chúng ta hài lòng tuyệt diệu. Vậy thì chúng ta đạt đến việc ấy như thế
nào? Chắc chắn không phải qua giận dữ,
ganh tỵ, tham lam quá độ hay thù hận, nhưng phải qua yêu thương ân cần, một đầu
óc cởi mở và chân thành.
Nếu
lý do của chúng ta là chân thành, không có gì để dấu giếm, và chúng ta sẽ đón
nhận lại một thái độ cởi mở. Đây là một
băng tần thật sự và thích đáng của giao tiếp loài người và không chỉ là sự phục
vụ đầu môi chót lưỡi. Theo kinh nghiệm của
chính tôi, đôi khi tôi thấy tôi có thể giao tiếp một cách chân thành ngay cả
khi tôi không biết ngôn ngữ của người đối diện.
Nhưng có lúc thật khó khăn để vô tư.
Khi
người ta có quyền lực, những người khác có khuynh hướng quây quần chung quanh họ. Tôi nghĩ tôi có nhiều bạn hơn do bởi giải
Nobel Hòa Bình. Những người bạn này có
thể không đáng tin cậy lắm. Con người với
tiếng tăm, quyền lực, hay giàu sang thường có nhiều bạn bè. Những người bạn này, trong thực tế, có thể không
là những bạn thật sự; họ chỉ bị hấp dẫn bởi sự giàu sang hay quyền lực của người
được quan tâm. Nếu người kia mất đi quyền
lực hay giàu sang, những người bạn này có thể biến mất. Tôi xem những người bạn như vậy là không chân
thành.
Người
bạn chân thật chia sẻ sự thân thiết chân thành và duy trì tình bạn bất chấp sự
thay đổi bất thường của vận mệnh. Sự
quan tâm như vậy cho người khác là một đức hạnh lớn nhưng nó cũng là vị kỷ
trong một cách vì một cách căn bản nó là lợi ích và quan tâm của chính người ấy. Tôi rất thường nói với những người bạn của
tôi rằng nếu chúng ta phải ích kỷ thì chúng ta nên ích kỷ một cách thông tuệ. Nếu chúng ta ngay thật chúng ta sẽ là những
người bạn đáng tin cậy và lợi lạc rất lớn.
Nếu chúng ta tảng lờ người khác, quên lãng phúc lợi của họ và chỉ nghĩ về
chính mình, cuối cùng tự mình sẽ là người mất mát.
Vì
vậy, cấu trúc căn bản của xã hội loài người đòi hỏi một ý nghĩa trách nhiệm đặt
căn bản trên lòng vị tha và từ bi. Cội
nguồn căn bản của hạnh phúc là lòng vị tha.
Thành công trong đời sống lệ thuộc tren sự quyết tâm, ý chí và lòng can
đảm. Và cội nguồn của can đảm và quyết
tâm này là lòng vị tha. Đôi khi giận dữ
và thù hận tạo ra một loại năng lượng và quyết tâm. Tuy nhiên, sự quyết tâm này hiếm có những hậu
quả tốt đẹp bởi vì năng lượng được tại ra bởi giận dữ và ganh tỵ là mù quáng,
tai hại và thậm chí có thể gây tai họa.
Kỷ
năng hay phương pháp của Đạo Phật để cải
thiện tâm được căn cứ trên thuyết lệ thuộc duyên sinh hay
pratiyasamutpada. Điều này một cách
chính yếu quan tâm với các nguyên nhân của khổ đau và vui sướng và sự kiện là mọi
thứ liên hệ hổ tương, tạo nên một dây chuyền phản ứng lại. Như tôi đã đề cập trước đây, toại nguyện hay
hạnh phúc tùy thuộc trên những nhân tố đa dạng.
Do thế, duyên sinh thật sự làm mở rộng nhận thức về thế giới của chúng
ta. Nó cho chúng ta thấy rằng mọi thứ
liên hệ đến lợi ích của chúng ta một cách căn bản. Cố nhiên, điều này cho phép chúng ta phát triển
sự quan tâm cho nhận thức rộng rãi hơn.
Thấu hiểu thuyết duyên sinh này và thật sự đưa nó vào thực tập có thể
thúc đẩy từ ái và bi mẫn, và giảm thiểu sự giận dữ và thù hận của chúng ta.
Theo
Đạo Phật, có một mối quan hệ tương xứng giữa nguyên nhân và kết quả nơi mà khổ
đau và vui sướng được quan tâm. Nguyên nhân trực tiếp là nghiệp. Nghiệp - karma - có nghĩa là hành vi. Những sự kiện ngày mai tùy thuộc rất nhiều
vào những hành vi hôm nay, những sự kiện năm nay tùy thuộc vào những sự kiện
năm trước, trong khi những sự kiện của thế kỷ này với những thứ của thế kỷ trước. Những hành vi của thế hệ trước tác động cuộc
sống của những thế hệ tiếp theo. Đây
cũng là một loại nghiệp. Tuy nhiên, có một
sự khác biệt giữa những hành vi được tiến hành bởi một nhóm người hay chúng
sinh cộng tác, và những hành vi được làm ra bởi một người đơn độc. Trong trường hợp cá nhân, những hành vi trước
đây của một người có một tác động trong phần sau này của đời sống.
Thế
rồi, nguồn gốc của hành động là gì? Động
cơ của tâm là gì? Và, quan trọng hơn,
tâm là gì? Có phải não bộ hay một loại
năng lượng sản sinh bởi não bộ? Câu trả
lời là cả hai. Là cả hai bởi vì trong
khi trình độ thô của ý thức được sản sinh bởi não bộ, thì nguồn gốc căn bản của
ý thức là thức vi tế sâu xa nhất không lệ thuộc vào não bộ. Vậy thì nguyên nhân và thức vi tế nhất là
gì? Có hai nguyên nhân: nhân "bản
thể'' và nhân "phối hợp" (câu hữu nhân).
Loài
người trải qua năm tỉ năm phát triển để có được như tình trạng hiện này. Trong ba đến bốn tỉ năm không có sự sống, chỉ
có một số căn bản, những tế bào chính yếu.
Mặc cho sự tiến hóa của loài người, câu hỏi vẫn là, Tại sao toàn thể vũ trụ hay thiên hà hình
thành sự hiện hữu? Lý do là gì? Chúng ta
có thể nói là không có lý do gì hay là nó đã xảy ra một cách đột nhiên, nhưng
câu trả lời ấy không thỏa mãn.
Một
câu trả lời khác là đấy đấng tạo hóa, hay Thượng Đế đã làm việc ấy. Tuy nhiên quan điểm ấy không đúng với triết
lý của Phật Giáo và Kỳ Na Giáo (và cả Lão Giáo[2]).
Câu trả lời của Đạo Phật là nó hình thành như
một kết quả của nghiệp báo của chúng sanh, những kẻ sử dụng vũ trụ này.
Lấy thí dụ của ngôi nhà. Một ngôi nhà hiện hữu bời vì có người thợ xây
dựng nó vì thế nó có thể được sử dụng.
Tương tự thế, bởi vì có chúng sanh sống hay sử dụng vũ trụ này, nên nghiệp
đã sản sinh ra vũ trụ.
Chúng
ta không thể giải thích điều này trên căn bản vật lý, chỉ trên căn bản sự tương
tục của tâm. Thức vi tế nhất hay tâm
không có bắt đầu và không chấm dứt. Đấy
là bản chất tối hậu của nó. Tôi không
nói về bản chất tuyệt đối ở đây. Ngay cả
trình độ quy ước (thế đế), bản chất tối hậu của điều gì đấy là thuần khiết. Tâm thô với thức căn bản của nó có bản chất cứu
kính của chính nó là thuần khiết. Nó có
thể bị ảnh hưởng bởi những cảm xúc phiền não cũng như bởi những tư tưởng tích cực. Tất cả những cảm xúc tiêu cực đặt cơ sở trên
si mê và si mê không có căn bản thuần nhất.
Theo
triết lý Phật Giáo, mỗi chúng sanh có một tâm và thức có khả năng trở thành một
vị Phật. Thức vi tế này được đặt tên là hạt
giống Phật, Phật chủng hay sugatahridaya hay tathagatagarbha. Đây là căn bản của Đạo Phật một cách tổng
quát và đặc thù trong Đại Thừa Phật Giáo, mục tiêu tối hậu là Quả Phật hay Giác
Ngộ. Chúng ta phải nên quyết định để đạt
được Quả Phật nhằm để phụng sự tất cả chúng sanh. Sự quyết định này là tâm giác ngộ - tâm bồ đề
hay bodhicitta, đấy là căn bản của giáo huấn Đại Thừa về lòng vị tha vô hạn.
Để
phát triển tâm bồ đề, trước nhất chúng ta phải biết về Bốn Chân Lý Cao
Quý. Có thể chấm dứt khổ đau hay đem đến
sự ngừng dứt hay diệt đế. Nhằm để làm việc
ấy, chúng ta phải biết khổ đau là gì và nguyên nhân của nó là gì. Chỉ khi ấy, diệt đế mới có thể đạt đến và con
đường chân thật hay đạo đế theo sau đấy.
Nó sẽ giúp chúng ta nếu chúng ta phát triển sự quyết tâm và lòng vị tha. Chúng ta nên trì tụng Tám Đề Mục mỗi người,
làm cho chúng trở thành một phần trong đời sống của chúng ta. Khi chúng ta đối diện với những rắc rối,
chúng ta nên đọc ngay lập tức, trì tụng và thực tập Tám Đề Mục. Điều này khó khăn để áp dụng nhưng tốt hơn là
thực hiện một sự cố gắng vì vậy chúng ta sẽ không hối tiếc sau này.
I
Với
lòng quyết tâm để hoàn thành
Lợi
ích cao quý nhất cho tất cả chúng sanh,
Những
kẻ hơn là viên ngọc ước,
Tôi
nguyện luôn yêu mến họ trong mọi thời.
Câu
kệ này tuyên bố rằng nhằm đề đạt đến Quả Phật, chúng ta phải phát triển lòng vị
tha vô hạn và tạo ra những hành vi tốt lành.
Chúng ta lệ thuộc sâu đậm trên những chúng sanh khác. Không có chúng sanh, chúng ta không thể phát
triển lòng vị tha vô hạn và không thể đạt đến Quả Phật.
Chúng ta hàm ơn những chúng sanh khác đối với tiếng tăm, thịnh vượng, và
bạn bè của chúng ta. Thí dụ, không có những
chúng sanh khác, chúng ta không thể có áo quần len, vì chúng ta không thể có
len mà không có những con cừu. Phương tiện
truyền thông chịu trách nhiệm cho danh tiếng, v.v…; ngay cả thanh danh cũng lệ
thuộc hoàn toàn vào những chúng sanh khác.
Từ
lúc thụ thai cho đến lúc chết, đời sống của chúng ta lệ thuộc vào những người
khác. Thật quan trọng để nhận ra rằng những
chúng sanh khác là quý giá và hữu ích như thế nào. Ngay khi chúng ta nhận ra điều này, thái độ
tiêu cực của chúng ta đối với chúng sanh khác sẽ thay đổi.
II
Khi
kết giao với người nào đấy
Tôi
nguyện tự nghĩ là người thấp nhất trong tất cả
Và
duy trì sự siêu việt của người khác
Trong
sâu thẩm trái tim của tôi
Thái
độ của chúng ta đối với người khác phải luôn luôn là tích cực. Chúng ta nên quan tâm đến người khác mà không
có cảm giác thương hại đối với họ. Trên
tất cả, chúng ta phải đối xử với họ với một sự tôn trọng lớn vì sự quý giá của
họ. Chúng ta phải xem họ như thiêng
liêng và thù thắng đối với chúng ta.
III
Trong
mọi hành động tôi nguyện tìm kiếm tâm mình,
Và
ngay khi phiền não, hay vọng tưởng, sinh khởi,
Nguy
hại đến tự thân và người khác,
Tôi
nguyện đối diện và ngăn ngừa chúng một cách kiên quyết.
IV
Khi
tôi thấy những người khác với bản chất độc hại,
Bị
thúc bách bởi tội ác bạo động và ưu phiền,
Tôi
nguyện ôm ấp những người hiếm hoi yêu mến này
Giống
như tôi tìm ra một kho tàng quý giá.
Những
câu kệ này giải thích cách chúng ta kiểm soát những cảm xúc tiêu cực của người
khác như thế nào. Tâm chúng ta bị ảnh hưởng
bởi những cảm xúc tiêu cực qua vô lượng kiếp sống quá khứ và thật cực kỳ khó
khăn để phát triển lòng vị tha. Chúng ta
phải chiến đầu liên tục chống lại những cảm xúc tiêu cực này. Chúng ta phải
sử dụng những phương pháp khác
nhau để đối phó với những năng lực của
sân hận. Chúng ta đơn giản nên cố gắng
quên đi đối tượng của sân hận và làm chệch hướng sự chú ý của chúng ta.
Tập trung vào hơi thở của chúng ta. Việc này làm dịu sự giận dữ một
cách nhẹ
nhàng. Rồi thì cố gắng để nghĩ về những
khía cạnh tiêu cực của sân hận và loại bỏ chúng.
Có
một loại sân hận khác ít mãnh liệt hơn.
Một cách để đối phó với sân hận đối với kẻ thù là tập trung trên những
phẩm chất tốt đẹp của kẻ thù. Hãy cố gắng
để tôn trọng và thông cảm thay vì giận hờn.
Theo Mười Hai Nhân Duyên, mỗi đối tượng có nhiều khía cạnh và phương diện. Hầu như không đối tượng nào có thể là hoàn
toàn tiêu cực. Mọi thứ có một phía tích
cực đối với nó. Tuy nhiên, khi sân hận lớn
mạnh, tâm chúng ta chỉ nhận thức khía cạnh tiêu cực.
Về
một mặt, kẻ thù chúng ta tạo ra rắc rối cho chúng ta. Về mặt khác, chính người ấy
cho chúng ta cơ hội để thực tập nhẫn nhục và bao dung, hai phẩm chất cần thiết
cho lòng từ bi và vị tha.
Khi
tham lam cực độ hay những cảm xúc tiêu cực sinh khởi, chúng ta phải chuẩn bị
cho chúng. Nếu chúng ta kích hoạt một
thái độ khoan dung khi cảm xúc tiêu cực
sinh khởi, nó trở nên mạnh mẽ hơn. Nên
loại bỏ hay cố gắng giảm thiểu cường độ của nó ngay khi nó sinh khởi.
V
Khi
những người khác vì đố kỵ đối xử với tôi một cách tệ hại
Với
sự ngược đãi, vu khống, và những thứ như thế,
Tôi
nguyện đau khổ của kẻ thua cuộc
Và
hiến dâng sự chiến thắng cho kẻ khác.
VI
Nếu
ai đấy mà tôi đã làm lợi lạc cho họ
Với
lòng thật mong ước làm tổn thương tôi rất tệ hại,
Tôi
nguyện nhìn người ấy
Như
vị đạo sư cao thượng của tôi.
Điều
này thật khó khăn để thực hành nhưng là căn bản nếu chúng ta muốn phát triển
lòng vị tha chân thành. Một vị Bồ tát thực
hành nào đó thực hành dường như không thể và không thực tế; tuy nhiên, đấy là
quan trọng.
Nếu
chúng ta khiêm tốn và trung thực, một người nào đó có thể lợi dụng chúng
ta. Ngay cả trong những trường hợp như
thế, chúng ta không nên che dấu bất cứ cảm giác tiêu cực nào đối với người ấy. Thay vì thế, chúng ta nên phân tích tình cảnh.
Việc cho phép người ấy làm bất điều gì người ấy muốn cuối cùng sẽ làm tổn hại
cho người ấy. Do vậy, chúng ta nên thực
hiện một số biện pháp chống trả. Chúng
ta nên làm điều này không phải vì người ấy làm tổn hại chúng ta, nhưng bởi vì
chúng ta nên quan tâm về sự cát tường của người ấy về lâu về dài.
Khi
sân hận khống chế tâm chúng ta, bộ phận tốt nhất của não bộ con người, bộ phận phán
xét các tình thế, không thể thực hiện chức năng của nó. Rồi thì chúng ta có thể sử dụng những từ ngữ
cay nghiệt một cách vô ý thức. Những từ
ngữ thù hận tuôn ra một cách tự động qua việc thiếu kiềm chế khi chúng ta không
thể kiểm soát tình thế. Một khi sân hận
hạ xuống, chúng ta cảm thấy tự hổ thẹn.
VII
Tôi
nguyện trực tiếp và gián tiếp
Dâng
hiến lợi lạc và hạnh phúc đến tất cả những bà mẹ của tôi;
Tôi
nguyện bí mật tự lãnh lấy
Sự
tổn hại và khổ đau của những bà mẹ.
Câu
kệ này nói với chúng ta làm lợi ích cho những chúng sanh khác hơn chính tự tôi
và lãnh lấy sự khổ đau của họ. Điều này
có thể được thực hành qua thở sâu - thở vào khổ đau và thở ra hạnh phúc. Chúng ta cũng có thể làm việc này bằng việc
quán tưởng hay rèn luyện tâm qua việc tập trung lên đối tượng của thiền tập.
VIII
Nguyện
cho điều này duy trì không bị nhiễm ô bởi cấu uế,
Bởi
quan điểm của tám pháp thế gian (bát phong)
Tôi
nguyện bằng việc nhận thức tất cả các pháp như vọng tưởng
Không
dính mắc, được giải thoát khỏi xiềng xích, luân hồi.
Nhằm
để thiền tập trên lòng vị tha cứu kính, thật quan trọng để thấu hiểu khái niệm. Trong Đạo Phật, những trình độ đa dạng của
các truyền thống có những sự diễn giải khác nhau. Với bốn trường phái triết lý, sự diễn giải ở
đây liên hệ trong những hệ thống Phật Giáo tối thượng, trường phái Hệ Quả Trung
Đạo[3]. Theo phái này, tánh không có nghĩa là không
có hiện tượng nào có sự tồn tại cố hữu (vô tự tánh). Bằng việc thấu hiểu sự thiếu vắng sự tồn tại
cố hữu của bản chất tất cả mọi hiện tượng, chúng ta có thể thấu hiểu bản chất
huyển hóa hay vọng tưởng của tất cả mọi hiện tượng.
Hãy
thực tập lòng vị tha vô hạn với sự hổ trợ của tuệ trí. Đấy là lối đi.
Constitution
Club Lawns, 1990
Nguyên
tác: Transforming Mind trích từ quyển Live in a Better Way
Ẩn
Tâm Lộ ngày 13/9/2012
[1]
Nay thuộc tỉnh Thanh Hải, Trung Hoa
[2] Đạo trong sự
trình bày của Lão Tử là một khái niệm trừu tượng chỉ cái tự nhiên, cái có sẵn một
cách tự nhiên: “Người bắt chước Đất, Đất bắt chước Trời, Trời bắt chước Đạo, Đạo
bắt chước Tự nhiên”. Nó là nguồn gốc của vạn vật.
[3] Prasanghika-madhyamaka
(s)