Động lòng hiếu kỳ, tôi cũng mở ra
nghe thì thấy quả thật đây là một bản nhạc có nhạc điệu rất hay, được một
nữ ca sĩ nổi danh trình bày, nhưng lời nhạc không đơn giản với những thuật
ngữ Phật học không dễ lãnh hội ngay được.
Ngay cái đầu đề của bản nhạc cũng
không tầm thường chút nào. Đó là bài “Chân
nguyên” của nhạc sĩ Trực Hội, do nữ ca sĩ Hà Thanh
hát.
Chân nguyên là
gì?
Tôi rất bỡ ngỡ, lúng túng với hai chữ
“Chân Nguyên”. Tìm đâu cũng không thấy nơi nào cho một định nghĩa
rõ rệt thế nào là “Chân nguyên”, “Chân nguyên” là gì?
- Vào mạng (internet) chỉ
thấy “Chân Nguyên” là tên của một vị thiền sư, thế kỷ thứ 17, thuộc dòng
Lâm Tế, tỉnh Hải Dương(1).
- Trong Phật học từ
điển của cụ Đoàn Trung Còn(2), tôi chỉ thấy có chữ “Chân”
mà thôi. Sau đó là chữ “Chẩn”.
Theo Phật học từ điển:
“Chân” là Thật, tức là chân thật, thành thật, lành lẽ tự nhiên, vốn là
tốt đẹp. Cũng đọc là “Chơn” (xem chữ Chơn). Đối nghĩa tự là: giả, hư,
vọng. Đồng nghĩa tự là thật, thành, như như.
Khi tôi xem đến chữ “Chơn”, thì chữ
“Chơn”, đứng một mình (đơn), cũng được định nghĩa y như chữ “Chân”
.
Sau chữ “Chơn” có rất nhiều chữ kép:
từ “Chơn-đế’, “Chơn-giác”, “Chơn như”… đến “Chơn-tông”, “Chơn-trí”,
“Chơn-tử”, “Chơn vọng”, và sau cùng là “Chơn vô lậu trí”. Không có chữ kép
“Chân nguyên” hay “Chơn nguyên”.
Tôi tìm chữ “Nguyên” trong Phật
học từ điển thì cũng không thấy, mà chỉ có chữ “Nguyện” (có dấu
nặng).
Nhưng “Nguyên” thì hầu như tất cả mọi
người đều hiểu là: chưa thay đổi (còn nguyên, nguyên văn), y như ban đầu
(nguyên si), ban đầu (nguyên bản, nguyên liệu, nguyên sơ), căn bản (nguyên
do, nguyên nhân, nguyên tắc).
Như vậy, tôi hiểu ra “Chân
nguyên” có nghĩa là “Lẽ thật tự nhiên ban đầu…”
Nghe toàn bộ bản nhạc Chân
nguyên, tác giả dường như muốn nhắc nhở mọi người tu Phật phải nhớ trở
về với cái “Tâm thanh tịnh” thành tựu từ sự thấu suốt và sống với Lẽ
thật tự nhiên.
Bốn câu đầu
của bài Chân nguyên
Bài hát Chân nguyên
khởi đầu bằng 4 câu như sau:
Chân nguyên! Tiếng ấy quen
thân từ thuở hồng hoang.
Chân nguyên! Bóng dáng song
sinh từ cõi địa đàng.
Chân nguyên! Chẳng cách không
gian và chẳng thời gian.
Chân nguyên! Ngươi vẫn trung
trinh chờ ta trở về.
Bốn câu này có mấy từ ngữ - thuở
hồng hoang, cõi địa đàng, không gian và thời gian - liên quan đến vũ
trụ quan của Tây phương và Đông phương.
Vũ trụ quan của nền văn minh Tây
phương có căn bản là một tôn giáo độc thần cho rằng thực tại tối hậu là
Thượng đế (với nhiều tên khác nhau như Chúa Trời, Thiên Chúa, Jehovah,
Allah…).
Thượng đế của người Tây phương được
hiểu là:
a. Một vị Thần có tính cách
nhân hình, có hình dáng và cá tính giống như một con người.
b. Một vị Thần sáng tạo ra vũ
trụ và tất cả các sinh vật, kể cả con người, trong 7 ngày. Đúng hơn là
trong 6 ngày, vì ngày thứ 7 ngài nghỉ không làm việc. Đó là ngày Chúa
(Chủ) Nhật.
Thuở hồng
hoang là
lúc Thượng đế chưa sáng tạo ra vũ trụ và các sinh vật.
Cõi Địa
đàng hay
là vườn Địa đàng là nơi có hai con người đầu tiên - một nam tên là
Adam, một nữ tên là Eva, do Thượng đế tạo ra - sinh sống tại đó.
c. Thượng đế với tất cả vũ trụ
và mọi sinh vật, con người, đều hoàn toàn cách biệt. Thượng đế là siêu
việt, vượt trên tất cả mọi thứ ngài đã sáng tạo ra.
d. Thượng đế cũng đã phán rằng
ngài sẽ hủy diệt khỏi mặt đất tất cả những gì ngài đã sáng tạo ra, từ con
người đến chim muông, cầm thú vì ngài không hài lòng với những loài ngài
đã tạo dựng ra.
e. Ngày ấy, khi xảy ra, gọi là
Ngày phán xét cuối cùng. Trong Ngày phán xét cuối cùng, chỉ có một
số người được Thượng đế chọn lựa mới được ngài cứu vớt đưa lên Thiên đàng
để được sống đời đời. Những người khác sẽ bị ngài hủy diệt đưa xuống Địa
ngục.
Văn minh Đông phương đã có một vũ trụ
quan khác. Theo vũ trụ quan
Phật giáo:
a. Không có một vị Thần nhân
hình nào đã sáng tạo ra vũ trụ, mọi sinh vật, kể cả con người, làm chủ và
ban ơn giáng họa cho con người. Con người làm chủ lấy chính
mình.
b. Vũ trụ vô thủy vô chung,
không có bắt đầu, cũng không có chấm dứt. Thực tại ban đầu cũng chính là
thực tại tối hậu.
c. Thực tại có mặt khắp tất cả,
không riêng ở một chỗ nào, lúc nào.
d. Thực tại siêu việt tất cả
không gian và thời gian mà đồng thời cũng hiện hữu trong không gian và
thời gian.
e. Toàn thể thế giới, vũ trụ là
một, chân thực và bình đẳng. Vạn vật đồng nhất thể.
Tâm đã giác ngộ - tác giả bản
nhạc gọi là Chân nguyên - hiện hữu, bao trùm khắp không gian và thời gian
(Chân nguyên! chẳng cách không gian và chẳng thời gian)
là cái thực tại ban đầu, thực tại tối hậu (Chân nguyên! từ thuở hồng
hoang, từ cõi địa đàng).
Những câu sau trong bản
nhạc
Mải theo hoa đóm hư
không
Chìm trong biển tối mênh
mông
Từ ấy ta quên đường
về.
Mải mê trong chốn trần
lao
Tìm trong thinh sắc xôn
xao
Từ ấy ta quên đường
về.
Lời nhạc nói lên là con người, mặc
dầu ngay thuở ban đầu, khi mới đầu thai vào bụng mẹ, để lại bắt đầu một
chu kỳ mới của một kiếp người, với tất cả những chủng tử thiện ác, tốt
xấu, trung tính (không tốt không xấu) của A lại da thức, là cái Vọng tâm
hay cái Tâm chúng sinh mê lầm (chưa giác ngộ) của mình. Khi sống ở
cõi trần này (chốn trần lao) con người, vì vô minh (biển tối
mênh mông), không biết mình chỉ là ngũ uẩn kết hợp lại. Khi năm uẩn
hoạt động (thinh sắc xôn xao) lại lầm chấp nó là Ta, hay là cái
Ngã, từ đó tạo nghiệp (hoa đóm hư không).
Bởi vậy, vì vô minh, con người đã
không tìm thấy cái tâm thanh tịnh ban đầu - đã quên mất đường
về.
Những đoạn còn lại của bài
nhạc
Lắng nghe tiếng chuông
chùa
Tiếng chuông chùa vang vọng
từ xa.
Sớm khuya như dục lòng
ta,
Trở về nơi quê
nhà.
Cuộc đời như khói như
sương.
Mà người sao mãi vấn
nương.
Mê lầm nên đau
thương.
Trầm luân
mãi.
Lối đi về đuốc tuệ thường
soi.
Tiếng từ âm mãi thời
vang.
Đường đi trải ánh nắng
vàng.
Lời nhạc muốn nói con người muốn
thoát khỏi sinh tử luân hồi (trầm luân mãi, cuộc đời như khói như
sương) thì hãy tỉnh giác (đuốc tuệ thường soi), trở về
với tâm thanh tịnh (trở về nơi quê nhà)
Trở về an trú Chân
nguyên.
Cuộc trần thôi hết đảo
điên.
Tâm thường như hư
không.
Chân
nguyên.
Con người hãy trở về với cái Tâm
Không chân thật của mình (trở về an trú Chân nguyên). Kinh xưa(3) đã kể: “Bồ tát Quán Tự Tại
khi vào sâu trong Thiền định Bát nhã Ba la mật đa đã thấy ngũ uẩn (sắc,
thọ, tưởng, hành, thức) đều là Không cho nên không còn khổ đau”. Tâm thanh
tịnh, nói cho cùng, theo Thiền tông, áp dụng lý Bát nhã, chính là
tâm Không (Không = không
thực) hay hư không: tâm thường như hư không, Chân
nguyên.
Đến đây xin mời quý bạn nghe bản nhạc
Chân nguyên của nhạc sĩ Trực Hội do nữ ca sĩ Hà Thanh trình
bày.
***
Tôi đã mạo muội viết ra mấy lời giải
thích, theo lời yêu cầu của người bạn, lời nhạc trong bản nhạc “Chân
nguyên” của nhạc sĩ Trực Hội. Xin tác giả Trực Hội vui lòng lượng thứ cho
sự đường đột này. Tôi cũng muốn xin tác giả Trực Hội, cùng tất cả những vị
thiện tri thức, khi đọc bài này, có thấy chi sai lầm, thiếu sót, hãy vui
lòng chỉ bảo cho. Đa tạ.
---------------------
(1)
Thiền Sư CHÂN NGUYÊN pháp
danh TUỆ ĐĂNG (1647 - 1726, đời thứ 36, tông Lâm Tế). Sư họ Nguyễn, tên
Nghiêm, tên chữ là Đình Lân, mẹ họ Phạm, quê ở làng Tiền Liệt, huyện Thanh
Hà, tỉnh Hải Dương. Một hôm, mẹ Sư nằm mộng thấy cụ già cho một hoa sen,
sực tỉnh dậy, từ đây biết có mang. Năm Đinh Hợi (1647), tháng 9 ngày 11
giờ ngọ, mẹ sinh ra Sư. Lớn lên theo học với cậu là ông Giám Sinh. Sư rất
thông minh, hạ bút là thành văn. Năm 16 tuổi, Sư đọc quyển Tam Tổ Thực
Lục, đến Tổ thứ ba là Huyền Quang liền tỉnh ngộ nói: “Cổ nhân ngày xưa dọc
ngang lừng lẫy mà còn chán sự công danh, huống ta là một chú học trò”. Sư
liền phát nguyện đi tu.
Năm 19 tuổi, Sư lên chùa Hoa
Yên, vào yết kiến Thiền sư Tuệ Nguyệt (Chân Trú).
Thiền sư Tuệ Nguyệt hỏi: -
Ngươi ở đâu đến đây ?
Sư thưa: - Vốn không đi
lại.
Tuệ Nguyệt biết Sư là pháp
khí sau này, bèn thế phát xuất gia cho pháp danh là Tuệ Đăng. Sau không
bao lâu Tuệ Nguyệt tịch. Sư cùng bạn đồng liêu là Như Niệm phát nguyện tu
hạnh đầu đà, đi du phương để tham vấn Phật pháp. Thời gian sau, Như Niệm
đổi ý trở về trụ trì chùa Cô Tiên. Sư đi lên chùa Vĩnh Phúc ở núi Côn
Cương tham vấn Thiền sư Minh Lương là đệ tử của Chuyết
Chuyết.
Sư hỏi:
- “Bao năm dồn chứa ngọc
trong đãy, hôm nay tận mặt thấy thế nào” là sao ?
Thiền sư Minh Lương đưa mắt
nhìn thẳng vào Sư, Sư nhìn lại, liền cảm ngộ, sụp xuống lạy. Minh Lương
bảo:
- Dòng thiền Lâm Tế trao cho
ông, ông nên kế thừa làm thạnh ở đời.
Minh Lương đặt cho Sư pháp
hiệu là Chân Nguyên (Bài viết trong Thiền viện Thường Chiếu - Bà Rịa Vũng
Tàu)
(2) Đoàn Trung Còn là cư sĩ, nhà
Phật học, quê xã Thắng Nhì, thị xã Vũng Tàu, tỉnh Bà Rịa.
Xuất thân trong một gia đình
có truyền thống Nho học và Phật học, thuở nhỏ học ở Vũng Tàu, Sài Gòn. Ông
thông thạo tiếng Pháp, tự học Hán văn và trở thành một người có căn bản
Hán học, rồi lập nghiệp ở Sài Gòn, cả đời chuyên tâm nghiên cứu, dịch kinh
sách Phật giáo.
Năm 1932, ông lập Phật học
tòng thơ, xuất bản được nhiều kinh Phật và các sách có liên hệ đến Phật
giáo, và Trí Đức tòng thơ xuất bản các sách Nho học.
Các tác phẩm Phật học của ông
được biên soạn, dịch thuật thường căn cứ trên những thư tịch Phật giáo Tây
phương. Sách của ông được lưu hành rộng khắp cả 3 miền đất nước và có số
lượng khá cao so với các tác giả, dịch giả khác.
Năm 1955, ông cùng các sư
thuộc phái Lục Hòa tăng thành lập một tông phái Phật giáo mới tại Việt
Nam, gọi là Tinh độ tông Việt Nam, có cơ sở rải rác ở miền Nam, trụ sở tại
chùa Giác Hải ở Phú Lâm, Chợ Lớn, sau dời về chùa Liên Tông đường Đề Thám,
Sài Gòn, nay thuộc quận 1, TP.HCM.
Ngoài ra, ông còn dịch cuốn
The Light
of Asia của Sir Edwin Arnold ra thơ lục bát với nhan đề Ánh sáng Á châu,
viết về cuộc đời Đức Phật Thích Ca.
Đoàn Trung Còn là một cư sĩ,
học giả Phật giáo có công thuyết giảng giáo lý đạo Phật với các tác phẩm
Phật học bằng tiếng Việt.
(3) Bát nhã Ba la mật đa tâm
kinh - Phần chánh văn Hán tự: “Quán Tự Tại Bồ tát, hành thâm Bát nhã ba la
mật đa thời, chiếu kiến ngũ uẩn giai không, độ nhất thiết khổ ách. Xá Lợi
Tử! Sắc bất dị Không. Không bất dị Sắc. Sắc tức thị Không. Không tức thị
Sắc. Thọ, Tưởng, Hành, Thức, diệc phục như thị…”.
Đào Viên