Chùa Bửu Minh


thua-huong-cong-duc

Từ bao đời nay, các thế hệ người Việt luôn thể hiện một tập tục văn hóa thật  hay và thật đẹp. Đó là đi lễ chùa vào những  ngày đầu  năm.  Rất  đẹp   và  rất  thiêng   liêng, truyền  thống  đến  chùa lễ Phật đầu  năm.
Năm mới mà đến  với Phật thì quanh  năm  sẽ luôn luôn có Phật ở trong  lòng, được Phật hộ cho ăn ở hiền hòa, được Phật độ cho muôn điều tốt lành! Đó là quan niệm quy ngưỡng  Phật môn của các thế hệ người Việt.

Quan niệm quy y Phật để ăn ở hiền lành, để xây dựng  mái ấm hạnh  phúc  gia đình, để giữ cho xóm làng yên vui hiền hòa từ lâu đã trở thành lẽ sống thân thương  của cư dân đất Việt. Nhờ biết quay về nương  tựa Phật, biết ăn hiền ở lành theo  lời Phật dạy nên các thế hệ người Việt sống hạnh  phúc, tạo lập cuộc sống  gia đình  đầm  ấm, dựng  xây quê  hương  thái bình. Một quan  niệm hay được chú ý vận dụng  lâu ngày thì thành  ra truyền thống, tạo nên một lẽ sống mang  tính cộng đồng. Lẽ sống nương  theo  Phật để ăn ở hiền lành ấy của người Việt đã tạo nên một cuộc sống thanh  bình hiền lương, dệt nên một xứ sở thái bình hiền hòa:

Quê tôi có gió bốn mùa,
C
ó trăng giữa tháng có chùa quanh năm…
Rủ
nhau xuống bể mò cua,
L
ên non hái củi về chùa nghe kinh…
L
ên chùa lạy Phật quy y,
C
ầu cho kẻ ở người đi an lành…

Nhân những  ngày thư thái đầu năm, chúng  ta thử chiêm nghiệm lại những lời Phật dạy về ý nghĩa quy y Tam bảo để hiểu rõ vì sao tổ tiên ông bà của chúng ta trước đây đã sớm tìm đến cửa Phật, một lòng quy y tin tưởng Phật, quyết tâm ăn ở hiền lành theo lời Phật dạy, lập nên một truyền thống  mến chuộng  Phật pháp để tạo thế phúc đức cho con cháu muôn đời về sau.

Theo lời Phật thì quy y Tam bảo – Phật-Pháp-Tăng – tức là phát tâm học theo hạnh giác ngộ của Phật, phát tâm sống theo pháp giác ngộ của Phật, phát tâm noi theo gương đức hạnh của chư Tăng đệ tử Phật để sửa đổi bản thân, ăn ở hiền lành, tu nhân  tích đức, được thể hiện cụ thể qua việc phát nguyện thọ trì năm giới cấm, tức từ bỏ sát sanh, từ bỏ lấy của không cho, từ bỏ tà hạnh trong các dục, từ bỏ nói láo, từ bỏ uống rượu. Đây chính là ý nghĩa thiết thực của việc quy y Tam bảo, tức nương theo Phật-Pháp-Tăng để tu dưỡng bản thân, phát  huy nếp sống đạo đức hiền thiện. Đức Phật gọi nếp sống quy ngưỡng Tam bảo và thọ trì năm giới cấm như vậy là sự tắm mình trong tám nguồn  nước công đức, tám nguồn nước thiện, đưa đến hạnh phúc an lạc lâu dài cho con người.

Chúng ta nghe nguyên văn lời Phật dạy: “Này các Tỳ- kheo, có tám nguồn nước công đức này, là nguồn nước thiện, món ăn cho an lạc, làm nhơn sanh Thiên, quả dị thục an lạc, đưa đến cõi trời, dẫn đến khả ái, khả hỷ, khả ý, hạnh phúc, an lạc. Thế nào là tám?

Ở đây, này các Tỳ-kheo, Thánh đệ tử quy y Phật. Này các Tỳ-kheo, đây là nguồn nước công đức thứ nhất, là nguồn nước thiện, món ăn cho an lạc, làm nhơn sanh Thiên, quả dị thục an lạc, đưa đến cõi trời, dẫn đến khả ái, khả hỷ, khả ý, hạnh phúc, an lạc.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo, Thánh đệ tử quy y Pháp. Này các Tỳ-kheo, đây là nguồn nước công đức thứ hai, là nguồn nước thiện, món ăn cho an lạc, làm nhơn sanh Thiên, quả dị thục an lạc, đưa đến cõi trời, dẫn đến khả ái, khả hỷ, khả ý, hạnh phúc, an lạc.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo, Thánh đệ tử quy y Tăng. Này các Tỳ-kheo, đây là nguồn nước công đức thứ ba, là nguồn nước thiện, món ăn cho an lạc, làm nhơn sanh Thiên, quả dị thục an lạc, đưa đến cõi trời, dẫn đến khả ái, khả hỷ, khả ý, hạnh phúc, an lạc.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo, Thánh đệ tử đoạn tận sát sanh, từ bỏ sát sanh, đem cho không sợ hãi cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hận thù cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hại cho vô lượng chúng sanh; sau khi cho vô lượng chúng sanh không sợ hãi, không hận thù, không hại, vị ấy sẽ được san sẻ vô lượng không sợ hãi, không hận thù, không hại. Này các Tỳ-kheo, đây là nguồn nước công đức thứ tư, là nguồn nước thiện … dẫn đến khả ái, khả hỷ, khả ý, hạnh phúc, an lạc.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo, Thánh đệ tử đoạn tận lấy của không cho, từ bỏ lấy của không cho, đem cho không sợ hãi cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hận thù cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hại cho vô lượng chúng sanh; sau khi cho vô lượng chúng sanh không sợ hãi, không hận thù, không hại, vị ấy sẽ được san sẻ vô lượng không sợ hãi, không hận thù, không hại. Này các Tỳ-kheo, đây là nguồn nước công đức thứ năm, là nguồn nước thiện … dẫn đến khả ái, khả hỷ, khả ý, hạnh phúc, an lạc.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo, Thánh đệ tử đoạn tận tà hạnh trong các dục, từ bỏ tà hạnh trong các dục, đem cho không sợ hãi cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hận thù cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hại cho vô lượng chúng sanh; sau khi cho vô lượng chúng sanh không sợ hãi, không hận thù, không hại, vị ấy sẽ được san sẻ vô lượng không sợ hãi, không hận thù, không hại. Này các Tỳ-kheo, đây là nguồn nước công đức thứ sáu, là nguồn nước thiện … dẫn đến khả ái, khả hỷ, khả ý, hạnh phúc, an lạc.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo, Thánh đệ tử đoạn tận nói láo, từ bỏ nói láo, đem cho không sợ hãi cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hận thù cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hại cho vô lượng chúng sanh; sau khi cho vô lượng chúng sanh không sợ hãi, không hận thù, không hại, vị ấy sẽ được san sẻ vô lượng không sợ hãi, không hận thù, không hại. Này các Tỳ-kheo, đây là nguồn nước công đức thứ bảy, là nguồn nước thiện … dẫn đến khả ái, khả hỷ, khả ý, hạnh phúc, an lạc.

Lại nữa, này các Tỳ-kheo, Thánh đệ tử đoạn tận đắm say rượu men, rượu nấu, đem cho không sợ hãi cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hận thù cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hại cho vô lượng chúng sanh; sau khi cho vô lượng chúng sanh không sợ hãi, không hận thù, không hại, vị ấy sẽ được san sẻ vô lượng không sợ hãi, không hận thù, không hại. Này các Tỳ-kheo, đây là nguồn nước công đức thứ tám, là nguồn nước thiện … dẫn đến khả ái, khả hỷ, khả ý, hạnh phúc, an lạc.

Này các Tỳ-kheo, tám nguồn nước công đức này, là nguồn nước thiện, món ăn cho an lạc, làm nhơn sanh Thiên, quả dị thục an lạc, đưa đến cõi trời, dẫn đến khả ái, khả hỷ, khả ý, hạnh phúc, an lạc.”1

Trên đây là lời Phật nói về tám nguồn nước công đức hay tám nguồn nước thiện, đưa đến hạnh phúc an lạc cho con người. Rõ ràng, tám nguồn nước công đức mà Đức Phật đã nói đến trong bài kinh của Ngài không gì khác là tám hạnh lành của người con Phật, đặt nền móng cho nếp sống đạo đức hạnh phúc của cá nhân, đồng thời cũng là nền tảng của đời sống hạnh phúc gia đình và ổn định xã hội. Điểm lại từng lời Phật dạy, chúng ta sẽ thấy rõ ý nghĩa và giá trị thiết thực của nếp sống quy y Tam bảo và thọ trì năm giới cấm mà Đức Phật khuyên nhắc mọi người nên dốc tâm thực hành để xây dựng hạnh phúc an lạc cho chính mình, cho gia đình mình, cùng lúc góp phần vào việc dựng xây một xã hội trong sáng và hiền thiện.

Hạnh lành hay nguồn  nước công  đức thứ nhất  là quy y Phật, có nghĩa là quay về sống với bản tính giác ngộ, sáng suốt và chân thực vốn có của chính mình.

Hạnh lành hay nguồn nước công đức thứ hai là quy y Pháp, tức là quay về với Chánh pháp, quay về với giáo pháp giác ngộ của Phật, lấy Chánh pháp làm lẽ sống, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn soi sáng các hành vi hiền thiện thuộc thân, miệng, ý của chính mình.

Hạnh lành hay nguồn nước công đức thứ ba là quy y Tăng, nghĩa là quay về học tập và sống theo Thánh hạnh hay đạo hạnh cao quý giống như chư vị xuất gia.

Hạnh lành hay nguồn nước công đức thứ tư là từ bỏ sát sanh, tức thể hiện sự hiểu biết và tình thương  yêu bằng cách tôn trọng sự sống và môi trường sống của muôn loài chúng sinh.

Hạnh lành hay nguồn nước công đức thứ năm là từ bỏ lấy của không cho, tức là sống với tâm chân thật, không tham lam trộm cắp, thể hiện lòng tôn trọng sở hữu và quyền sở hữu của người khác.

Hạnh lành hay nguồn  nước công đức thứ sáu là từ bỏ tà hạnh  trong  các dục, tức từ bỏ lòng ham muốn dục vọng bất chính, thực thi nếp sống hôn nhân thủy chung, tôn trọng hạnh phúc hôn nhân và hạnh phúc gia đình của người khác.

Hạnh lành hay nguồn  nước công đức thứ bảy là từ bỏ nói láo, tức là sống chân thực, không vọng ngôn, không dối gạt người khác, thể hiện lời nói chân thực, không nói lời sai trái, nói đúng sự thật, không nói láo vì động cơ này hay động cơ khác.

Hạnh lành hay nguồn  nước công đức thứ tám là từ bỏ các loại rượu men rượu nấu, tức là biết gìn giữ và nuôi dưỡng  tâm thức tỉnh táo và sáng suốt, tránh xa các chất kích thích làm rối loạn và mê mờ tâm trí.

Như vậy, cứ theo lời Phật dạy thì một người mà biết quy y Tam bảo và tuân thủ năm giới cấm của Phật tức là người biết xây dựng hạnh phúc an lạc cho chính mình, đồng  thời biết tôn trọng  hạnh  phúc  an lạc của người khác; một người như vậy tức là có đủ đức năng tạo lập cuộc sống hạnh  phúc  gia đình, có đủ phẩm  chất góp phần xây dựng xã hội trong sáng và hiền thiện. Người ấy thể hiện một nếp sống chân chánh hiền thiện  – không sát sanh, không lấy của không cho, không tà hạnh trong các dục, không nói láo, không uống rượu – đưa đến tự lợi và lợi tha, được xem là người “đem cho không sợ hãi cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hận thù cho vô lượng chúng sanh, đem cho không hại cho vô lượng chúng sanh; sau khi cho vô lượng chúng sanh không sợ hãi, không hận thù, không hại, vị ấy sẽ được san sẻ vô lượng không sợ hãi, không hận thù, không hại”. Nói khác đi, với nếp sống quy ngưỡng Tam bảo và gìn giữ năm giới cấm, người Phật tử không những biết cách xây dựng đời sống hạnh phúc an lạc cho chính mình mà còn tạo duyên lành cho nhiều người khác thiết lập cuộc sống hạnh phúc an lạc, thể hiện trách nhiệm cao quý của một người con Phật là luôn luôn sống với tâm niệm tự lợi và lợi tha, thực thi nếp sống đạo đức hiền thiện vì hạnh phúc cho chính mình và vì lợi lạc cho mọi người khác. Đây chính quả lành của nếp sống quy ngưỡng Tam bảo hay sự tắm mình trong tám nguồn nước công đức, tám nguồn  nước thiện mà Đức Phật đã nói đến ở trong bài kinh của Ngài.

Nhìn chung, nếp sống nương theo Phật để sửa đổi bản thân, quyết tâm ăn ở hiền lành, nỗ lực tu nhân tích đức của cư dân đất Việt cứ lặng lẽ diễn ra từ thế hệ này sang thế hệ khác, đem lại không khí hạnh phúc đầm ấm cho từng mái nhà, sự yên vui hòa ái cho từng xóm làng; giống như tiếng chuông chùa lặng lẽ buông  rơi mỗi ngày, thức tỉnh thiện tâm và lòng từ ái trong lòng mọi người vậy. Chính nếp sống hiền thiện ấy đã từng dệt nên một bức tranh thanh bình tuyệt đẹp cho quê hương xứ sở, xứng đáng cho các thế hệ con cháu người Việt chiêm ngoạn và tự hào:

Quê tôi có gió bốn mùa,
C
ó trăng giữa tháng có chùa quanh năm.

Ngày nay, nhìn cảnh mọi người già trẻ gái trai tấp nập trong khuôn viên các ngôi cổ tự vào những  ngày đầu xuân với lòng kính cẩn dâng hương lễ Phật, chúng ta lại thấy quý trọng chừng nào truyền thống tín ngưỡng Tam bảo mà tổ tiên ông bà của chúng ta đã lập nên để cho đến hôm nay các thế hệ con cháu người Việt chúng ta vẫn tiếp tục được tắm mình trong nguồn nước công đức, nguồn  nước thiện mà hơn 2.500 năm trước Đức Phật đã từ mẫn khai thị cho chúng sanh, sau đó tổ tiên ông bà của chúng ta đã khéo tiếp thu và lưu truyền lại cho chúng ta. ■

Chú thích:

  1. Kinh Nguồn nước công đức, Tăng Chi Bộ.

 Văn Hoá Phật Giáo số 220


©2010 -2024  Chùa Bửu Minh | Homepage