Trong đời sống thường nhật, bị áp lực
thời gian, bất mãn với hàng loạt gánh nặng gia đình và công việc, mỗi
ngày, chúng ta đều cảm thấy bế tắc, thậm chí tuyệt vọng. Vì tin rằng tu
tập nghĩa là phải có thời gian để chuyên nhất quán tưởng, lễ lạy, thực
hiên các nghi lễ cúng dàng hay tâm linh khác, v.v…, chúng ta càng tin
tưởng mình còn thiếu thiện duyên. Ta vẫn tự nhủ "Làm sao mình có thể trở
thành một hành giả chân chính nếu không có thời gian để thực hành?" Tuy
nhiên, đây là một cách hiểu về việc thực hành Phật pháp hoàn toàn thiếu
thực tế, sai lầm.
Chúng ta hãy kiểm nghiệm lại pháp tu
Lục độ Ba La Mật, mang ý nghĩa sáu phương pháp hoàn hảo gồm: bố thí, trì
giới, nhẫn nhục, tinh tiến, thiền định và trí tuệ - tất cả đều cần
thiết để thành tựu Phật quả. Bất kỳ sự thực hành nào trong số sáu phương
pháp này đều đòi hỏi chúng ta phải liên hệ và tương tác với mọi người.
Nói cách khác, để có thể thực hành Lục độ Ba la mật một cách sâu sắc,
chúng ta cần những mâu thuẫn và xung đột trong chính cuộc sống đời
thường. Nếu chỉ ngồi yên nơi tịnh thất và cho rằng mình đang tràn đầy
tình yêu thương cùng các phẩm chất tích cực như vị tha, bao dung, nhẫn
nhục thì đó là điều quá dễ dàng bởi ta chẳng gặp phải bất kỳ thách thức
nào. Nhưng khi xả thất, ta gặp gỡ rất nhiều người trong đời sống thực
tế, những người không đối tốt với ta, không làm theo những điều ta mong
muốn, ta sẽ nhìn thấy mình rõ hơn và bắt đầu hiểu thế nào là thực hành
Phật pháp chân chính.
|
Ảnh minh họa.
|
Chúng ta có thể áp dụng hai cách tiếp
cận cơ bản trong quá trình tu tập của mình. Thứ nhất, ta cần học cách
sống tỉnh thức mỗi ngày - đây là điều cốt yếu. Thứ hai là học cách rộng
mở tâm hồn thông qua thực hành Lục độ ba la mật đặc biệt là hạnh bố thí
và nhẫn nhục. Nếu tâm hồn chúng ta khép chặt, dù trì tụng bao nhiêu chân
ngôn, thực hiện bao nhiêu lễ lạy, thụ nhận bao nhiêu quán đỉnh, tầm đọc
bao nhiêu kinh sách cũng đều vô nghĩa. Nếu sự hành trì không giúp ta
thay đổi một cách đúng đắn, tích cực thì điều đó hoàn toàn chẳng có ý
nghĩa gì.
Vì hay đồng hóa bản thân với đủ mọi
cảm xúc, tư tưởng, thiên kiến và định kiến nên chúng ta không còn chỗ
cho chính mình để có thể nhìn mọi thứ một cách chân xác trong mọi hoàn
cảnh. Đắm chìm trong "vũng lầy" vô minh ấy, ta thường có những lựa chọn
sai lầm trong hầu hết mọi tình huống. Giống như bị quăng quật, quay
cuồng giữa cơn bão biển, cuộc sống cũng tương tự vậy, chúng ta phải học
cách giữ định tâm giữa những bão tố của đời thường. Cách tốt nhất là
tỉnh thức và rộng mở tâm hồn đón nhận khoảnh khắc hiện tại. Như vậy được
gọi là chính niệm. Bậc Đại thành tựu giả Milarepa từng nói rằng càng
trải qua bão tố thăng trầm của hạnh phúc và khổ đau, càng có cơ hội tu
tập và thành tựu giác ngộ trong cuộc đời.
Chúng ta hãy tìm hiểu về ý nghĩa thực
sự của tỉnh thức. Thông thường, khi chúng ta nghĩ rằng mình đang trong
giây phút hiện tại, thực ra đó là lúc chúng ta đang diễn giải hiện tại,
chúng ta suy tưởng về hiện tại thay vì thực sự ở trong khoảnh khắc thuần
túy đó. Chúng ta có thể tự nhủ "Phải rồi, mình sẽ chính niệm", ta ngồi
và nghĩ “Đúng rồi, mình đang chính niệm đây”. Nhưng như vậy không phải
là chính niệm, chẳng qua là chúng ta đang nghĩ về chính niệm mà thôi.
Trong khoảnh khắc chính niệm thực sự, thậm chí khái niệm về chính niệm
cũng không tồn tại. Chính niệm chỉ đơn giản là sự tỉnh thức trực tiếp,
rộng mở. Vì tâm bị che mờ và lớp lớp vọng tưởng nên hiện tại không thể
hiển lộ đối với chúng ta.
Chúng ta có thể cho rằng mình luôn
tỉnh thức, thông thái và khôn ngoan nhưng thực ra phần lớn thời gian
chúng ta hành xử như một cái máy. Bấm nút và nhận kết quả. Tâm đầy ắp
những suy tưởng về quá khứ hoặc tương lai, kẹt mắc giữa những vọng
tưởng, mơ mộng, những câu chuyện được thêu dệt, những ý kiến, những bình
phẩm và phán xét – như vậy quá khó có thể buông bỏ những vọng niệm này
để chỉ chú tâm vào những gì đang thực sự diễn ra. Vì thế, chúng ta cần
thức tinỉh chính mình khỏi cơn mê. Khoảnh khắc mà ta đạt được tỉnh thức -
dù cho đó chỉ là một khoảnh khắc ngắn ngủi - ta có thể nhận ra mình đã
mê mờ. Trong trải nghiệm của tâm tỉnh thức rộng mở, mọi thứ đều trở nên
sáng rõ. Mọi thứ đều thay đổi, đều được chuyển hóa. Ta nhận ra rằng
không chỉ bản thân mình mê mờ mà hầu hết những người khác cũng vẫn còn
đang vô minh như vậy.
Đức Phật, vô cùng thực tế và thiện
xảo, đã khai thị bằng vô số giáo pháp theo các cấp độ vi tế khác nhau
nhằm giúp chúng sinh tiếp cận và thâm nhập thực tại. Ngài bắt đầu với
những khai thị về thân - cấp độ thô lậu nhất - bởi thân là trải nghiệm
mà tất cả chúng ta đều dễ dàng nhận thấy. Trong lúc sống với thân này,
phần lớn thời gian chúng ta không ý thức được về nó, chúng ta hoàn toàn
tách biệt với thân. Vì vậy, bước đầu tiên là quay về với hiện tại của
thân, chẳng hạn, khi ngồi ta biết mình đang ngồi; khi đứng ta biết mình
đang đứng, khi đi ta biết mình đang đi; khi nằm ta biết mình nằm. Chỉ
đơn giản như vậy. Chúng ta có thể so sánh việc này như là thức giấc.
Nhưng tâm chúng ta chỉ có thể tỉnh thức trong chốc lát rồi lại tiếp tục
mê mờ. Thật lạ lùng là tâm luôn muốn ngủ! Do vậy, chúng ta cần nhắc nhở
mình trở về với hiện tại bởi đó là khoảng thời gian duy nhất ta thực sự
sở hữu. Tất cả những thứ khác đều chỉ là sự phóng chiếu của tâm.
Cách khác để rộng mở tâm hồn trong
khoảnh khắc hiện tại là dùng hơi thở. Hơi thở là yều tố liên hệ giữa
thân và tâm. Sân hận, sợ hãi, an lạc hay bất kỳ cảm xúc nào mà ta có đều
được thể hiện qua hơi thở.Theo truyền thống Phật giáo, hơi thở được ví
như con tuấn mã trong khi tâm là người kỵ sĩ. Dù cho thông thường, hít
thở là một quá tình tự động, chúng ta hoàn toàn có thể tỉnh thức trong
tiến trình này. Và nếu ta có thể thực sự kết nối với hơi thở, hòa nhập
vào trong hơi thở, không vọng niệm gì về việc hòa nhập hay kết nối này
thì như vậy nghĩa là ta đang thực sự ở trong hiện tại. Bởi hơi thở chính
là hiện tại, nó ở ngay đây, trong chính khoảnh khắc này. Khi bạn bị
căng thẳng và stress, cách giải tỏa vô cùng thiện xảo là điều phục tâm
nương theo hơi thở vào ra. Điều này đặc biệt hữu ích khi ta phải xếp
hàng chờ đợi hay đang lái xe. Khi phải dừng trước đèn đỏ, ta có thể nóng
ruột nhưng nếu suy ngẫm rằng "đây chính là cơ hội tuyệt vời để thực
hành", sau đó, ta xoay sự chú ý của mình về hơi thở, tình huống sẽ thay
đổi ngay lập tức. Chúng ta sẽ hoan hỷ với viêc chờ đợi này!
Sự thực hành tu tập còn có một cấp độ
khác đó là tỉnh giác nhận thức tâm của chính mình. Đây là cấp độ quan
trọng nhất đồng thời khó khăn nhất để thực chứng bởi nó cũng là cấp độ
vi tế nhất. Tất cả những Đại thành tựu giả yogi trong quá khứ đều cho
rằng cốt tủy của việc thực hành là luôn quán sát tâm tại mọi thời điểm.
Đây dĩ nhiên là căn bản của việc thực hành tu tập về tâm. Nhưng thế nào
là giữ tâm tỉnh giác, sáng suốt? Ví dụ kinh điển là hình ảnh một người
ngồi bên bờ sông quan sát dòng nước đang chảy trôi. Ví dụ khác nói về
một người chăn cừu khéo léo, thiện xảo chăn dắt bầy cừu của mình.
Thiền định cũng bao gồm cách thức cứng
nhắc và cách thức thiện xảo. Theo cách cứng nhắc, hành giả thiền định
bằng cách cột chặt tâm mình đề giữ cho nó tỉnh thức, khiến tâm không có
lối thoát và trở nên bí bách, căng thẳng. Bạn có thể thấy rằng, khi
thiền giả quá gắng sức dồn ép tâm, hậu quả là họ thường bị xáo trộn các
nguồn năng lượng bên trong cơ thể - người Tây Tạng gọi đó là "loong”.
Khi đó, hành giả thường trở nên bực bội, muốn gào thét. Điều chúng ta
cần là tâm thật sự thư giãn, tĩnh tại. Tâm cần trở nên rộng mở, sắc bén
và tỉnh giác. Điều đó hoàn toàn khác với trạng thái hôn trầm (tức tâm mê
mờ, ngủ gật) hay vọng tưởng (tâm lăng xăng, xao động). Nó cũng không có
nghĩa là mọi thứ phải căng thẳng và mọi niệm hiện khởi phải gò ép theo
một thứ tự hình thành nhất định. Một cách vô cùng đơn giản, tâm cần được
rộng mở và sáng rõ.
Thực tai duy nhất mà ta có được chính
là những gì đang diễn ra, ngay tại đây và ngay lúc này. Nếu ta phóng tâm
với những mộng tưởng, ký ức, hy vọng và sợ hãi, chúng ta sẽ bỏ lỡ mất
thực tại này và toàn bộ cuộc sống của ta chẳng khác gì giấc ngủ của mê
mờ triền miên. Chúng ta làm sao có thể biết mình thực sự là ai khi mà
mình không bao giờ ở trong thực tại?
Theo Người Đưa Tin