trong khuôn 
khổ viện trợ giáo dục của Tây Ðức. Vì một sự tình cờ, tác giả đã chứng 
kiến biến cố tại Ðài Phát thanh Huế đêm 8/5/1963 làm 8 Phật tử bị chết 
một cách thê thảm và đã trình bày sự kiện này trước Ủy ban điều tra đàn 
áp Phật giáo Việt Nam của Liên hiệp quốc vào tháng 9/1963.
 
*********

 
Khi tôi cùng với Fred, Tuân (1), Phương và người chị tên Hà đi dạo đến 
chùa Từ Ðàm vào buổi tối ngày mồng 7 tháng 5 (1963), chúng tôi cảm thấy 
có một điều gì đặc biệt đang xãy ra. Ðó là buổi tối trước ngày mừng lễ 
Phật Ðản lần thứ 2507. Lá cờ năm màu của Hội Phật giáo quốc tế được treo
 lên bên cạnh những cây lồng đèn đủ màu trước mỗi nhà. Tại những quán ăn
 hay cà phê bên đường, người ta thấy nhiều nhóm sinh viên, dân lao động 
và các vị lớn tuổi bận lễ phục đang thảo luận một cách hăng say. Ðêm hôm
 đó là một trong những đêm hè đầu tiên trong năm. Sau cái nắng chói chan
 lúc ban chiều, nay người ta cảm thấy được thoải mái hơn, mặc dầu khí 
trời chưa được dịu mát cho lắm. Những mặt đường, những bức tường và các 
mái nhà đã được nung nóng suốt ngày, nay bắt đầu nhả lại bớt cái nóng 
cho không khí bao quanh. Nếu người ta tiến lại gần những vật nóng đó, 
người ta sẽ cảm thấy chúng dường như đang rung động. 
 
 Trên các 
con đường người ta thấy quang cảnh của một ngày lễ hội lớn. Những gia 
đình với đông đảo con cái đi đến viếng thăm các ngôi chùa trang hoàng 
với nhiều cây lồng đèn hay đứng trố mắt nhìn các quyền môn với nhiều ánh
 đèn néon sáng chói hay các hương án kết bằng giấy đầy mầu sắc sặc sở. 
Không khí giống như là một ngày mừng lễ chiến thắng vậy. 
 
 Fred 
kể cho chúng tôi nghe do đâu mà có không khí như thế. Ngày hôm trước, 
đức Tổng giám mục Ngô đình Thục, người anh cả của Tổng thống Diệm, đã 
thành công trong việc vận động chính quyền ban hành một công văn truyền 
đi bằng điện tín cấm treo cờ Phật giáo quốc tế. Sáng hôm nay đã có một 
viên cảnh sát theo đạo Gia tô giựt xuống một lá cờ treo trên một hương 
án nằm bên đường. Chiều nay đã có những toán cảnh sát đi vào nhiều nhà 
tư nhân và tịch thu các lá cờ bị cấm. Ðiều này không thể làm cho giới 
tăng già Phật giáo ngồi yên được. Họ đã kêu gọi quần chúng Phật tử hãy 
đến phản đối sự cấm đoán này trước tòa Tỉnh trưởng Thành phố Huế. Chiều 
nay đã có hàng ngàn người biểu tình trước tòa Tỉnh trưởng và đòi thu hồi
 lại ngay biện pháp kỳ thị kia. Ðứng trước phản ứng mạnh mẻ bất ngờ đó, 
ông Tỉnh trưởng đã ra lệnh cảnh sát tạm thời cho phép treo cờ Phật giáo 
vào dịp lễ mừng ngày Phật Ðản ngày mai. Ông ta cũng thông báo cùng các 
vị lãnh đạo Phật giáo rằng ông sẽ can thiệp vào Saigòn để yêu cầu thu 
hồi lại lệnh cấm đoán trên. Không khí tưng bừng tối hôm nay như thế là 
do kết quả của cuộc biểu tình hồi chiều nay. Ðám đông bắt đầu ý thức 
được sức mạnh của mình khi cùng nhau tranh đấu cho một mục tiêu chung. 
 
 Trong những năm vừa qua, các người bạn của tôi như Tuân, Miên và Quát 
(1) đã kể lại cho tôi nghe về sự căng thẳng ngày càng tăng giữa chế độ 
và Phật giáo. Vào tháng 3 năm 63 tôi có đọc một bài viết trên một tờ báo
 Thiên chúa giáo Pháp lên án thái độ “huyênh hoang đắc thắng” của Giáo 
hội Thiên chúa giáo Việt Nam (sau này vào năm 65 tôi có gặp tác giả bài 
báo đó, linh mục Nguyễn ngọc Lan tại nhà bạn tôi Raoul). Ngoài ra tôi 
còn nghe nói đến những khóa học về thuyết Nhân vị do đức Tổng giám mục 
Thục tổ chức tại Vĩnh Long. Rất nhiều công chức và sĩ quan không theo 
đạo Thiên chúa cũng phải tham dự. Nhiều người kỳ vọng sau khi tham dự 
các khóa học đó sẽ được thăng quan tiến chức nhanh hơn, trong số đó có 
tướng Nguyễn văn Thiệu sau này. 
 
 Tôi cũng có nghe nói đến 
trường hợp nhiều người đã theo phe kháng chiến Việt minh hay những phe 
đối lập chính trị khác đã phải đổi theo đạo Thiên chúa để khỏi bị công 
an làm khó dể. Toàn bộ viện trợ thực phẩm của Hoa kỳ (Chương trình thực 
phẩm vì hòa bình) đã bị Tổ chức xã hội Thiên chúa giáo và các linh mục 
tại các thôn xã lợi dụng để vận động “cải đạo” trong quần chúng Phật tử.
 Có một tin đồn nói rằng Tổng giám mục Thục muốn đổi đạo cho một phần ba
 dân số Việt nam để hy vọng sẽ được phong làm Hồng y. Tôi cũng biết rằng
 Giáo hội Thiên chúa giáo là tôn giáo duy nhất tại Việt nam được công 
nhận như là một hiệp hội công cọng, trong khi đó Phật giáo phải bằng 
lòng với tư cách của một hiệp hội tư, không khác gì một hội đá banh. Tuy
 đây là một điều còn sót lại từ thời Pháp thuộc, nhưng nay vẫn còn được 
áp dụng, mặc dù giới tăng già Phật giáo đã lên tiếng nhiều lần yêu cầu 
thay đổi. Phật giáo phải xin phép chính quyền mỗi khi muốn mở một bệnh 
viện hay trường học, muốn mua đất đai để xây chùa hay tổ chức các lễ hội
 rước tượng Phật – một sự bó buộc mà Thiên chúa giáo không phải tuân 
hành do tính cách được biệt đãi. Trong vòng hai năm vừa qua, các đơn xin
 phép như thế của Phật giáo chỉ được chấp nhận một cách khó khăn và thưa
 thớt , hay chỉ được cấp rất trể nải, gây ra nhiều khó khăn về mặt tổ 
chức. Trong một quốc gia mà có tới 80 phần trăm dân số tự cho mình là 
theo Phật giáo, mặc dầu chỉ có khoảng một nửa là tham gia tích cực vào 
các nghi lễ đạo Phật, trong lúc chỉ có 10 phần trăm theo Thiên chúa 
giáo, những cố gắng cải đạo hay những lôi kéo vì quyền lợi vật chất hay 
nghề nghiệp dành riêng cho những con chiên ngoan đạo, cùng lúc với những
 biện pháp hành chánh kỳ thị đối với Phật giáo tất nhiên đã tạo nên 
những sự bất bình và lo lắng trong quần chúng. 
 
 Tất cả những 
căng thẳng này ở Huế, nơi trung tâm của Phật giáo Việt nam, đã chưa dẫn 
đến một sự bùng nổ, là do sự khéo léo của người em út của Tổng thống 
Diệm là ông Ngô đình Cẩn. Mặc dầu ít học, không nói được tiếng ngoại ngữ
 nào, với lập trường vô cùng bảo thủ và bài ngoại, ông ta đã tìm được 
với các nhà lãnh đạo Phật giáo tại địa phương một sự đồng thuận nào đó 
về mặt chính trị và ý thức hệ, vì cùng có quan điểm quốc gia cực đoan. 
Ông ta cũng không phải là một người ngoan đạo. Ông ta chán ngán những 
lời khuyên bảo của các linh mục trong những lần xưng tội, vì họ tìm cách
 khuyên ông hãy từ bỏ những chuyến buôn gạo và súng đạn cho “Việt cọng” 
cũng như những chuyến buôn thuốc phiện. Họ cũng đã chỉ trích việc ông ta
 thanh toán một cách không thương tiếc những kẻ đối thủ trên thương 
trường hay đã can thiệp một cách trắng trợn vào công việc của chính 
quyền. Ông ta bày tỏ thái độ không muốn trở về con đường thánh thiện của
 một con chiên và cũng không nghĩ đến việc ủng hộ một cách tích cực các 
cố gắng truyền giáo của Giáo hội Gia tô. Ngược lại, theo một lời đồn 
đải, mỗi tuần vào ngày thứ bảy ông ta ngồi uống trà với nhà sư Thích Trí
 Quang và bàn luận về cách thức đẩy lùi các ảnh hưởng của Tây phương 
trên các lãnh vực văn hóa, kinh tế cũng như chính trị. Ông ta đã có lần 
nói với Linh mục Cao văn Luận, đương kim Viện trưởng Viện Ðại học Huế, 
một con người cởi mở và đứng đắn rằng: “Thưa Cha, thế nào con cũng xuống
 địa ngục. Thế thì tại sao con không làm những điều mà con thích”. Và 
thật vậy, ông ta thích có nhiều tiền, thích chơi đồ cổ, thích nhiều 
quyền lực và thích kinh tài. Ông ta có riêng một vườn nuôi thú với nhiều
 hổ và beo cũng như một lực lượng quân sự đặc biệt. 
 
 Những việc
 làm lộ liễu có tính cách băng đảng đó của ông Cẩn, sự độc lập chính trị
 cũng như các hành vi coi thường đạo đức đó của ông ta đã thúc đẩy hai 
ông Diệm và Nhu phải vận động Giám mục Thục đương nhiệm tại Vĩnh Long 
đổi về Huế đảm nhiệm chức vụ Tổng giám mục. Năm 1960 đức cha Thục về Huế
 thật và đã giành lấy nhanh chóng sự trung thành của những người cầm đầu
 nghành công an và quân đội tại đây. Trung tâm quyền lực đã dần dần được
 chuyển từ trụ sở băng đảng về tòa Tổng giám mục. Ðồng thời một chiến 
dịch tấn công Phật giáo, những kẻ được coi là “vô đạo và vô thần” cũng 
được bắt đầu. Ðức cha Thục với phương tiện tài chánh dồi dào đã cho xây 
rất nhiều nhà thờ và chủng viện. Ðức cha để cho các vị linh mục dưới tay
 làm việc chung với Công an mật vụ và dùng Công an mật vụ này để phục vụ
 tôn giáo của mình. Ðức cha cho các viên chức hành chánh hay quân sự hay
 rằng sự tham dự lễ nhà thờ mỗi chủ nhật sẽ có lợi ích cho sự nghiệp của
 họ. Những biện pháp kỳ thị trước đây được thi hành một cách lỏng lẻo 
đối với Phật giáo thì nay bất ngờ được siết chặt. Trường học không được 
xây cất nữa, các lễ rước Phật chỉ được cho phép trong những dịp đặc 
biệt. Trong các thôn xã nếu những ai không vâng lời các vị linh mục thì 
liền bị tình nghi là chống đối chế độ, hay được coi là nối giáo “cọng 
phỉ”.
Trong lúc ở tại Saigòn và Ðà nẵng bắt đầu có những cơ sở ăn chơi trụy
 lạc hay kinh tài mờ ám dính líu đến một vài người có thanh thế của chế 
độ, thì ở tại Huế một phong trào bắt đầu hướng về đạo Phật được coi như 
là để chống đối chế độ. Những người sinh viên, tiểu chức và giới buôn 
bán nhỏ, trước đây quá lắm đi chùa mỗi năm một lần do sự thúc dục của 
người mẹ hay vợ thì nay bắt đầu tham gia hàng loạt những tổ chức Phật 
giáo như Gia đình Phật tử, Sinh viên Phật tử, Tiểu thương Phật tử 
v.v…Như thế chính nhà cầm quyền vô tình đã thúc đẩy một sự đối lập có tổ
 chức. 
 
 Một số lớn quần chúng Huế từ lâu đã tìm thấy trong đạo 
Phật một định hướng tinh thần. Trong những năm 30 một phong trào chấn 
hưng đạo Phật đã khởi đầu từ chùa Từ Ðàm, lan tràn khắp miền Trung và ra
 tận đến đồng bằng Cửu long. Hòa thượng Thích Tịnh Khiết và bác sĩ Lê 
đình Thám đã phát họa những nền tảng lý thuyết và thực hành của phong 
trào chấn hưng này. Phật giáo cần được tổ chức một cách thống nhất trên 
toàn quốc, do đó một Tổng hội Phật giáo Việt nam đã được thành lập. Ðồng
 thời các tu sĩ không còn phải học thuộc lòng những kinh kệ để cúng tế 
hay làm phù phép, mà phải tu dưỡng theo con đường tu hành trong sáng của
 đức Phật và đem truyền bá những điều đó đến các đệ tử hay những người 
quen biết. Hội Phật học tại Saigòn cũng được thành lập trong tinh thần 
đó. Trong những chùa chiền mới được xây cất, các hình tượng của những vị
 thần linh hay ma quỷ không còn được trưng bày, còn tại các ngôi chùa cũ
 thì không được đem thêm vào nữa. Các tu sĩ trẻ tuổi được gởi đến học 
tại các trường trung hay đại học. Sự thành lập các trường học, cô nhi 
viện và nhà hộ sinh chứng minh một sự tham dự vào các hoạt động xã hội 
và từ thiện mà từ nhiều thế kỷ qua Phật giáo đã vắng bóng.
Hiện tượng dấn thân và về nguồn này cũng làm trỗi dậy trong những tín
 đồ và tu sĩ Phật giáo tinh thần dân tộc yêu nước. Họ khám phá ra rằng 
chính một người Á đông đã rao truyền một lối sống tâm linh và đạo đức đã
 được toàn thế giới kính phục và đồng thời cũng là một con đường đem lại
 hòa bình và hạnh phúc cho con người. Họ cảm thấy rằng “con đường trung 
đạo” của đức Phật Thích Ca thích hợp với tâm tính người Á đông hơn là 
đạo Thiên Chúa được nhập cảng từ phương Tây với lối truyền giáo thô bạo 
đi cùng với sự xâm chiếm của giới thực dân và xa lạ đối với những nguyên
 tắc đạo đức truyền thống của dân tộc. Từ những nhận định đó, họ đã xích
 lại gần với đòi hỏi phải có một Ðông Nam Á mang tính chất Phật giáo, 
độc lập đối với Tây phương về các phương diện chính trị và văn hóa. Họ 
nổ lực theo đường hướng này, đúng ngay vào lúc mà người Mỹ có chính sách
 ủng hộ Tổng thống Diệm chống lại Mặt trận Giải phóng, mà người Mỹ xem 
như là một tranh chấp quốc tế để “đẩy lùi lại Trung Cọng”. Nhưng người 
Phật tử thì lại xem như là một cuộc chiến tranh tôn giáo. Những người 
học trò đầu tiên của Hòa thượng Thích Tịnh Khiết và bác sĩ Lê đình Thám 
càng ngày càng cổ võ cho một nền văn hóa dân tộc mang tính chất Phật 
giáo và một sách lược chính trị trung lập. Người ta có thể tìm đọc cơ sở
 lý luận của khuynh hướng này trong những bài viết của Thượng tọa Thích 
Trí Quang, vị lãnh đạo có uy tín chống chế độ Ngô đình Diệm và những 
chính phủ quân nhân sau này của các tướng Khánh, Kỳ và Thiệu.
Bác Sĩ E. Wulff với Thượng Tọa Thích Trí Quang tại chùa Ấn Quang (tháng 11-1967)
 Tất cả những điều này tôi chỉ biết được một cách mù mờ vào tối 
ngày mồng 7 mà thôi. Trước đó chỉ có một lần sau khi đến Huế vài tuần, 
tôi có dịp tiếp xúc với giới tăng già Phật giáo, khi được mời tham dự 
một buổi chiêu đãi dùng cơm chay nhân dịp có một vị sư người Anh đến ghé
 thăm một chùa nhỏ tại ngoại ô. Sau đó vào buổi tối tôi tháp tùng Hòa 
thượng Thích Mật Nguyện đến dự lễ đón tiếp chính thức vị sư người Anh 
tại chùa Diệu Đế nằm bên kia sông Hương và tôi có dịp làm quen với sự 
trang nghiêm của nghi lễ Phật giáo. Tôi ngạc nhiên vô cùng khi thấy rất 
nhiều người trẻ tham dự với một thái độ thư thái và hớn hở. Trên khuôn 
mặt của họ, tôi không thấy vết tích của một sự chán đời nào. Ngược lại 
người ta có thể cảm nhận một sự tích luỹ của sức mạnh và ý chí, để được 
sử dụng vào một ngày nào đó. Rất có thể ngày đó là ngày hôm nay. 
 
 Trên đường trở về lại nhà, chúng tôi gặp Orje va Hans (2). Tôi kể sơ 
lược cho họ nghe về các biến cố ngày hôm nay. Họ liền nói ngày mai họ 
muốn quây phim đoàn rước Phật lên chùa Từ Ðàm cũng như buổi lễ trịnh 
trọng trước bàn thờ vĩ đại đã được bày trước chùa. Họ cũng muốn đem theo
 máy ghi âm vì thế nào cũng có một lời tuyên bố của một vị lãnh đạo Phật
 giáo về những biện pháp kỳ thị của nhà cầm quyền và về những cuộc biểu 
tình đã xảy ra ngày hôm nay. 
 
 Sáng ngày hôm sau tôi thức dậy 
trễ nên không theo dõi được phần đầu của đoàn rước, và chỉ có thể đứng 
nhìn đoàn người đi qua từ lầu thượng căn nhà tôi ở. Tôi không thấy có gì
 đặc biệt đáng để ý, ngoài những biểu ngữ thông thường chào mừng ngày 
đức Phật đản sanh. Ðến trưa, Orje và Hans về kể lại cho tôi nghe rằng 
Thích Trí Quang (đây là lần đầu tiên tôi nghe tên vị sư này) đã lên án 
những biện pháp kỳ thị Phật giáo, cũng như những hành vi nhục mạ các 
biểu tượng tôn giáo của cảnh sát và tuyên bố rằng, các phật tử sẽ không 
khoanh tay ngồi yên trước những khiêu khích đó. Sau đó là những lời hoà 
hoãn và Thích Trí Quang đã nói lời cám ơn viên tỉnh trưởng đã ngưng thi 
hành lệnh cấm treo cờ. Buổi lễ được chấm dứt trong không khí hòa bình và
 nhất trí, và mọi việc có thể được xem như tạm giải quyết ổn thỏa. 
 
 Fred đã lấy máy bay trở lại Saigòn lúc buổi trưa và Tuân và Phương thì 
muốn đi ngủ sớm. Do đó tôi quyết định đi xem xinê, vì đinh ninh rằng sẽ 
không có gì xảy ra nữa đâu. Buổi tối hôm đó trời thật nóng bức; khí trời
 dường như đã biến thành một khối nặng nề và đứng yên một chổ khiến 
người bộ hành khó bước xuyên qua được. Nơi một góc đường ở trước tòa Ðại
 biểu chính phủ, tôi thấy một đoàn người đông đảo đi không dứt và đổ 
xuống từ hướng chùa Từ Ðàm và di chuyển về con đường lớn. Tôi tự hỏi, 
buổi lễ hôm nay sao chấm dứt sớm vậy. Nhưng tôi để ý thấy rằng rất nhiều
 người bước đi một cách vội vàng. Chắc có chuyện gì đang xảy ra. Tôi 
bỗng nghe một người nào đó gọi tên tôi. Ðó là Tý (3), một người học trò 
của tôi, mà tôi đã để ý ngay đầu năm học vì sự khôi hài và lanh lợi của 
anh ta. Tý hỏi tôi muốn đi cùng đến nghe phát thanh lại bài nói chuyện 
sáng hôm nay của Thích Trí Quang, bài này sẽ được phát đi trong vòng vài
 phút nữa và sẽ được truyền ra bên ngoài bởi những loa phóng thanh đặt 
trước trụ sở Ðài. Anh ta muốn phiên dịch cho tôi bài nói chuyện đó. Tôi 
nghĩ rằng đây là một cơ hội tốt để biết biến cố ngày hôm qua đã được 
giải quyết êm thắm hay chưa. 
 
 Trong khuôn viên của Ðài Phát 
thanh Huế nằm bên đầu cầu Trường tiền bắc ngang qua sông Hương, một đám 
đông quần chúng đã tụ tập ở đó. Mỗi phút lại thêm nhiều người đổ xô đến,
 đứng chật ních lan ra đến hàng rào và ngã tư đường trước Ðài. Lúc 9 giờ
 tối số người lên đến khoảng 6000. Sau đó có một tin đồn truyền miệng 
nói rằng buổi phát thanh đặc biệt hằng năm nhân ngày Phật đản nay đã bị 
cấm vào giờ phút chót. Quần chúng Phật tử đã tụ tập đông đảo trước đài 
phát thanh vì họ chỉ nghe trong máy thu thanh phát đi những bản quân 
nhạc thay vì tiếng nói của Thích Trí Quang và dự đoán sẽ có những chướng
 ngại mới sau lệnh cấm treo cờ ngày hôm trước, và để sẵn sàng phản đối 
nếu cần thiết. Sinh viên, học sinh, người già và trẻ con đứng xen lẫn 
bên nhau. Rất nhiều người còn dắt theo xe đạp. Lại có không khí như một 
ngày lễ hội giống như ngày hôm qua. Mọi người nói chuyện với nhau mặc dù
 chưa quen biết bao giờ. 
 
 Loa phóng thanh loan báo hiện đang có
 những cố gắng thương thuyết với viên Tỉnh trưởng và khoảng nữa giờ nữa 
bài nói chuyện sẽ được phát đi. Các tín đồ cần chứng tỏ quyết tâm bằng 
sự nhẫn nhục chờ đợi trong sự yên lặng và trật tự. Một người học sinh 
nóng nẩy đã đem treo lá cờ Phật giáo năm màu trên nóc nhà Ðài phát thanh
 đã được yêu cầu đem cờ xuống. Lâu lâu đám đông lại được yêu cầu kiên 
nhẫn và giữ trật tự, mỗi khi có vài người hô to những câu chống chính 
phủ. Chúng ta không chống chính phủ, giọng nói của một vị tu sĩ phát ra 
từ loa, chúng ta chỉ đòi hỏi quyền lợi đã trở thành truyền thống của 
chúng ta, và chúng ta sẵn sàn hy sinh khi cần thiết để bảo vệ niềm tin. 
Từ từ đám đông trở lại yên tĩnh. » Ông có biết Trần đức Thảo không ?» , 
một sinh viên đứng sau lưng tôi hỏi như vậy. Thảo là một triết gia, học 
trò của Husserl và Heidegger, đã cố gắng tổng hợp những triết thuyết của
 Husserl và Marx và đã trở về Hà nội năm 1954. Những năm trước đây tôi 
có đọc về Hiện tượng luận, do đó tôi biết tên ông ta. Nhưng điều mà làm 
tôi ngạc nhiên, là ở thành phố Huế này, có người dám nêu tên ông một 
cách công khai. Nhiều phụ nữ và trẻ con cùng hát những bài vui nhộn. Ðám
 đông ý thức được sự quan trọng của giờ phút này và uy quyền của chính 
mình. Mỗi người đều tin tưởng rằng lần này viên Tỉnh trưởng cũng sẽ 
nhượng bộ. Như thế một kỷ nguyên chính trị mới sẽ bắt đầu tại Việt nam, 
trong đó quần chúng không còn là những thần dân cúi đầu chấp nhận những 
kẻ cầm quyền cai trị theo ý trời. 
 
 Thình lình có một đoàn xe 
chạy lại. “Chúng ta cám ơn vị Tỉnh trưởng đã đến với chúng ta, yêu cầu 
đồng bào nhường chỗ”, đó là giọng nói của Thích Trí Quang truyền qua loa
 phóng thanh. Dưới tràng pháo tay viên Tỉnh trưởng tìm một lối đi giữa 
đám đông và biến mất cùng với vị Sư vào trong toà nhà. Nét căng thẳng 
của đám đông càng lúc càng tăng lên. Không biết cuộc thương thuyết bên 
trong xãy ra thế nào? 
 
 Vài phút sau đó có tiếng ầm ầm của một 
đoàn xe thiết giáp. Có tất cả năm xe thiết giáp xuất hiện. Một chiếc tìm
 cách đi thẳng vào trong khuôn viên của Ðài phát thanh. Nó dừng lại chỉ 
cách Tý và tôi vài bước mà thôi. Dòng chữ trắng mang tên Ngô đình Khôi 
được kẻ trên nền lục của phần trên sắt dày của chiếc xe thiết giáp. “Lẹ 
lên, mau ra khỏi đây”, Tý nói, “Chiếc xe này thuộc một binh đội đặc biệt
 tuyệt đối trung thành với ông Diệm”. Ngô đình Khôi là tên của người anh
 cả của ông Diệm, đã bị Việt minh giết trong sự hổn loạn của năm 1945, 
lúc đó đang làm tỉnh trưởng tỉnh Quảng nam và từng cọng tác mật thiết vì
 tư lợi trong nhiều năm với giới bảo hộ Pháp. Mặc dầu ông Diệm có thái 
độ chính trị khác với ông anh, nhưng không bao giờ ông tha lỗi cho người
 cọng sản đã giết chết anh ông và do đó từ chối mọi sự hợp tác với Hồ 
chí Minh, ngay cả vào lúc mà một số chức sắc Thiên chúa giáo ở tại miền 
Bắc đi biểu tình dưới lá cờ Việt minh chống thực dân Pháp.

 
 Chúng tôi tìm cách vượt qua hàng rào của Ðài. Ðiều này không dễ dàng. 
Hàng trăm người cũng cảm thấy tình hình trở nên đáng lo ngại nên tìm 
cách chạy ra khỏi cổng ra vào rất hẹp của Ðài. Nhiều người tìm cách đem 
xe đạp của mình ra, một số khác phải quăng xe để lại, nên người ta phải 
bước lên chúng để thoát ra ngoài. Vành xe, bánh xe và tăm xe kêu rào rạo
 dưới chân người bước qua. Tý và tôi rốt cuộc cũng nhảy qua được hàng 
rào cao 1,20 mét. Từ phía bên kia đường chúng tôi có thể nhìn lại quang 
cảnh xảy trước mắt một cách rõ ràng hơn. Một xe chữa lửa đang xịt nước 
lên đám đông đang thưa dần. Nhưng áp xuất nước rất yếu để có thể gây sợ 
hãi cho người khác. Làn nước chỉ có tác dụng đem đến sự mát mẻ trên các 
khuôn mặt và áo quần những người có mặt, gây nên một tràn cười vui vẻ.
Và rồi những phát đạn đầu tiên được bắn ra từ nòng súng ca nông của 
xe thiết giáp ; chúng tôi nghe khoảng 10 phát súng nổ kêu vang và khô 
khan. Như những người chung quanh, Tý và tôi nằm rạp xuống đất. Tôi có 
thể nhìn thấy rõ ràng đầu ngọn lửa phát ra từ họng súng của hai chiếc xe
 án ngự nơi bồn tròn nằm phía đầu cầu Trường tiền. Sau tiếng súng là một
 chập im lặng. Với một vài bước nhảy, Tý và tôi băng qua con đường lớn 
để vào núp nơi một con đường nhỏ bên cạnh. Những người chung quanh chúng
 tôi cũng làm như thế. Từng nhóm từ mười đến hai mươi người vung tay lên
 bày tỏ sự bất bình của mình. Ðúng vào lúc đó một loạt súng trường bắt 
đầu nhả đạn. Một chiếc thiết giáp bắt đầu tìm cách phân tán những đám 
nhỏ này.
Chúng tôi tìm cách trốn bỏ đi và cuối cùng chạy về được đến nhà của 
Orjes và Hans chỉ nằm cách chỗ tai biến khoảng 150 mét. Hans đang đứng 
trước nhà. Tôi kể cho anh ta nghe những gì đã xãy ra. Tiếng súng sau đó 
đã ngưng. Hans hỏi, có ai chết hay bị thương không. Chúng tôi không 
biết. Câu hỏi này làm chúng tôi bất an, rất có thể người ta cần sự cứu 
thương. Cho nên chúng tôi ba người đi trở lại Ðài phát thanh. Giữa 
đường, trước khách sạn dành riêng cho cố vấn quân sự Mỹ, tôi gặp Paul 
Miller, một người Mỹ trẻ làm việc trong Văn phòng trường Ðại học. Anh ta
 kể rằng 'họ đã đi qua đây'. Thiếu tá Ðặng Sỹ, người cầm đầu đoàn quân, 
đã bảo anh ta phải lánh mặt đi chỗ khác. Sắp có màn phải giết người, vì 
ông ta đã nhận được lệnh từ cấp trên đến dẹp tan vụ bạo loạn tại Ðài 
phát thanh với bất cứ giá nào. Ngay cả Paul cũng không biết có người 
chết hay không. Anh ta đã trải qua trận bắn phá trong khách sạn “Cố 
vấn”. Nhưng anh ta biết rằng Thiếu tá Sỹ là một người Ki tô quá khích và
 là một người thân tín của Tổng giám mục Thục (4). 
 
 Ngã tư 
đường trước Ðài phát thanh giống như một bãi chiến trường giờ đây hoang 
vắng. Vô số chiếc xe đạp cong queo và dày dép đủ màu nằm ngổn ngang trên
 đường giờ đây đã vắng bóng người; chỉ có một nhóm nhỏ thanh niên Phật 
tử cầm cờ năm màu đi về hướng phía bên kia chiếc cầu, theo sau là một 
chiếc thiết giáp, thỉnh thoảng bắn đuổi theo sát trên đầu người. Có hai 
viên cảnh sát đứng ở đó, nhưng chắc cũng không rõ tại sao họ có mặt. 
Chúng tôi hỏi các người cảnh sát, có gì trầm trọng không. Họ nói không 
biết gì và khuyên chúng tôi nên vào nhà thương xem thử sao. 
 
 
Trong khu nhập viện có khoảng 20 người bị thương đang nằm. Không có ai 
bị thương trầm trọng cả. Họ chỉ bị trầy xước va trẹo xương vì trong lúc 
hỗn loạn, họ đã bị đè bẹp và dẫm lên người. Họ đang được chăm sóc bởi 
bác sĩ Tô đình Cự, trưởng phòng mỗ của bệnh viện. Ông ta có vẻ hốt hoảng
 khi thấy chúng tôi xuất hiện. “Các ông hãy về đi, đây không phải là 
chuyện của các ông. Chỉ có một vài vết thương nhẹ, một mình chúng tôi 
cán đáng được rồi”, ông ta nói như vậy. Khi chúng tôi sắp sửa ra về, thì
 có một người y tá trước đây làm trong khu Tâm thần ra dấu kêu tôi lại. 
“Ông hãy vào xem trong nhà xác”, ông ta nói khẻ bên tai tôi như vậy. 
 
 Nhà xác nằm bệnh cạnh nhà thương điên và do những lao công của nhà 
thương này canh gát. Không có ánh đèn điện. Dưới ánh sáng yếu ớt của đèn
 bạch lạp, chúng tôi thấy có bảy thân người đầy máu me được đặt trên ba 
bàn khám nghiệm bằng đá. Từ chân đến ngực thân thể họ còn nguyên vẹn. 
Nhưng năm cái xác – tất cả là trẻ em- thì không còn đầu. Nơi một người 
phụ nữ thì có những vết đạn bắn vào cánh tay, vai và cổ. Các xe thiết 
giáp đã bắn nát đầu các em thiếu nhi, có lẽ vào lúc các em leo qua hàng 
rào của Ðài phát thanh và nhô đầu ra trước. Nếu như các em khôn ngoan 
như người lớn, tức là nằm xuống dưới đất lúc súng đạn bắt đầu nổ, thì có
 lẽ các em đã không hề hấn gì. 
 
 Cha mẹ của những người tử nạn 
đang thút thít khóc. Người cha của một em bé gái đã chết yêu cầu chúng 
tôi chụp hình những xác chết. Nhưng chúng tôi không có mang theo máy 
hình. Hans và Tý đi về kiếm Orje, vì anh ta có đem về Huế đầy đủ máy 
móc. Khi tôi muốn quay đi không muốn nhìn cảnh thê thảm này nữa, thì tôi
 chợt thấy bên cạnh cánh tay của một xác trẻ em không đầu một con mắt 
dính vào một ít da đầu và một khúc xương trán. Trước nhà xác tôi gặp một
 vị sư trẻ tuổi của chùa Bảo quốc và đang theo học tiếng Phạn tại Ðại 
học. Ông ta đã trốn vào nhà thương vì sợ bị bắt giữa đường. Tôi đưa ông 
ta về lại chùa, tọa lạc chỉ cách căn phòng tôi ở vài bước (5). 
 
 Khi về đến khu cư xá giáo sư đại học tôi vội bước lên các tầng cấp để 
đến căn phòng của gia đình Giáo sư Krainick. Tình cờ lúc đó bà Krainick 
đang đọc vào máy ghi âm bức thư gia đình hỏi thăm các người con. Trong 
sự hốt hoảng lúc bà và ông chồng nghe tôi kể lại những biến cố vừa xãy 
ra, bà đã quên tắt máy. Do đó mà có được lời tường thuật đầu tiên ghi 
lại chỉ không đầy một giờ đồng hồ sau các biến cố trên ; cuộn băng nhựa 
ghi âm này đã được dùng làm bằng cớ vào tháng chín năm 1963 trước Ủy ban
 Việt Nam của Liên hiệp quốc, kèm theo với lời khai danh dự chứng thật 
nguyên bản của Giáo sư Krainick. 
 
 Sau đó cũng vào khoảng 11 giờ
 30 đêm, tôi đến đánh thức ông bạn Tuân và cũng kể những gì đã xảy ra. 
Tuân tức thời hiểu được tầm quan trọng chính trị của biến cố. Tuân nhận 
định rằng những cuộc biểu tình khắp toàn quốc của các giới Phật tử sẽ 
làm giảm uy tín của ông Diệm, và cuối cùng người Mỹ phải bỏ rơi ông ta. 
Quân đội vì sợ cúp viện trợ sẽ tìm cách lật đổ ông ta. Tôi cần phải đi 
vào Saigon để thông báo cho Miên và Quát (6) biết, đồng thời tìm cách 
đưa tin cho các hãng thông tấn Mỹ để họ khai thác biến cố này. Có một sự
 trùng hợp là Giáo sư Krainick và tôi đã dự định từ lâu sẽ vào Saigon 
trong các ngày tới để gặp ông bộ trưởng bộ Giáo dục và vé máy bay đã 
được mua sẵn rồi. Ðây là một cơ hội tốt để về thủ đô mà không ai để ý. 
 
 Sáng hôm sau vào lúc 7 giờ vị sư trẻ mà tôi đã đưa về chùa tối hôm qua 
đến gặp tôi và đưa hai bức thư nhờ chuyển đến Thượng tọa Thích Minh Châu
 hiện đang du học tại Ấn độ và Tổ chức Phật giáo quốc tế. Tôi được yêu 
cầu tìm cách chuyển ngầm hai bức thư này ra khỏi nước. Trước khi chúng 
tôi lên đường ra phi trường Phú bài, Orje xuất hiện và giao cho tôi cuộn
 phim chụp tối hôm qua. Nửa giờ trước khi cảnh sát cấm không cho ai vào 
nhà xác , anh ta đã chụp được tất cả xác những người chết. Giáo sư 
Krainick bỏ cuộn phim vào túi quần của ông ta – để phòng trường hợp cảnh
 sát đã ngửi biết được sự có mặt của tôi tại nơi xãy ra tai biến và sự 
lục lọi sau đó của chúng tôi tại bệnh viện. Nhưng ở Phi trường Phú bài 
hay tại Saigòn không ai để ý gì đến chúng tôi. Chắc hẳn đối với mật vụ 
của ông Diệm, các biến cố đã xãy ra một cách quá bất ngờ và không ai 
tính đến chuyện sẽ có những nhân chứng ngoại quốc. 
 
 Cùng với 
ông Krainick tôi thuê một căn phòng tại khách sạn. Tôi tìm đến Miên (7) 
liền và đánh thức ông ta ra khỏi giấc ngủ trưa. Ông ta mở cửa cho tôi mà
 đang còn ngáy ngủ và mặt mày nhăn nhó. Nhưng bộ tịch ông ta thay đổi 
liền sau khi hiểu được vấn đề. Thái độ tính toán của ông ta là một gáo 
nước lạnh vào sự phẩn uất và nóng lòng của tôi. Giống như Tuân, ông ta 
chỉ nhìn thấy nơi những xác chết những con bài sáng giá có được một cách
 bất ngờ trong công cuộc vận động chống chế độ độc tài. Trong lúc Tuân 
chống chế độ độc tài vì chịu không nổi những bất công thì đối với Miên, 
đây chỉ là một mưu toan phản loạn. Miên thay áo quần và chúng tôi kéo 
đến nhà Quát. Ông này cũng được đánh thức ra khỏi giấc ngủ trưa. Sự điềm
 tĩnh và trịnh trọng thường lệ của ông ta bỗng chốc đã biến thành một sự
 kích động sau khi đã nghe tôi kể chuyện. Phải tạo một thế liên minh tức
 khắc với Phật giáo, trước khi người khác cùng có ý tưởng này. Sự việc 
đã có nhiều người chết chỉ là chuyện bên lề đối với ông ta. Ông ta nhận 
lấy cuộn phim từ tay tôi và hứa sẽ nhờ người thân tín sang ra khoảng 12 
bản trong vòng 24 tiếng đồng hồ. Sau đó chúng tôi trở về lại khách sạn, 
vì lúc 5 giờ chiều Giáo sư Krainick và tôi có hẹn với ông bộ trưởng giáo
 dục. 
 
 Nội dung của buổi tiếp kiến này chỉ còn lưu lại trong 
trí nhớ của tôi một cách rời rạc. Dự thảo xây dựng những trung tâm lâm 
sàn cho trường đại học đã được bàn đến. Ông Krainick và tôi đã chiết 
tính phí tổn xây cất và bảo quản, kê những dụng cụ cần thiết cần mua và 
những đề nghị xin tài trợ. Ðó là một trong những đồ án phát triển toàn 
hảo về mặt kỹ thuật, nhưng nếu xét về các mặt chính trị, kinh tế và tâm 
lý thì là hảo huyền, mà bất cứ một người cộng tác viên ngoại quốc nào 
đầy thiện chí đều đưa ra trong những năm đầu tiên đến nơi quốc gia mình 
muốn giúp. Trong lúc nói chuyện, thật tình hồn vía của tôi để chỗ khác. 
Những giọng nói của Giáo sư Krainick, của ông Bộ trưởng, và ngay cả của 
chính tôi đã xa rời thực tại, tất cả đối với tôi như tiếng phát âm ngây 
ngô của những người gỗ được lên giây cót; những cử chỉ buồn cười của ông
 bộ trưởng, những cúi đầu thái quá của ông Krainick và ngay khuôn mặt 
dài thòn ra của chính tôi đã khiến tôi muốn bật cười. Lúc cuộc nói 
chuyện kết thúc, tôi có cảm tưởng giống như một người điên được thả ra 
lầm trước cửa nhà thương điên. 
 
 Buổi tối hôm đó Raoul mời tôi 
ăn chung với hai nhà báo, phóng viên người Mỹ Neel Sheehan và người Úc 
Nick Turner. Lúc tôi kể cho họ nghe về những gì đã xảy ra ở Huế, họ nghi
 ngờ không tin tưởng chút nào lời kể của tôi. Chuyện xảy ra đối với họ 
quá động trời, nên họ không muốn đụng chạm đến nếu không có một đảm bảo 
nào. Sau khi tôi đưa cho họ xem các ảnh do người của ông Quát sang, họ 
nhẩy đẩy lên và lôi giấy bút ra để ghi chép. Ngay trước nửa khuya họ đã 
chuyển đi bằng máy viễn ký những bản tin đến khắp thế giới. Vì Turner 
làm việc cho hãng thông tấn Reuter, Sheehan cho hãng UPI, tôi hy vọng sẽ
 đọc được những hàng chữ lớn trên báo chí khắp năm châu. Một sự lầm to, 
một sự ngây thơ làm sao! Sau 48 tiếng đồng hồ, tôi phải nhận ra rằng, 
ngoại trừ đài Hà nội, không một đài phát thanh nào đưa tin, ngay cả 
những tờ báo lớn như Le Monde, New York Times đều im bặt. 
 
 
Không chịu bó tay, tôi quyết định lấy máy bay qua Phnom Penh. Chính 
quyền Campuchia trong thời gian qua đã bị chính quyền ông Diệm đả kích 
dữ dội vì đường lối ngoại giao trung lập. Vào cuối những năm 50, cơ quan
 phản gián Mỹ CIA với sự cọng tác của một vài điệp viên Việt nam đã tìm 
cách lật đổ chính quyền của hoàng thân Sihanouk, nhưng đã bị thất bại. 
Chính Miên và một người lanh lợi khác tên là Ðặng đức Khôi đã điều khiển
 công tác này. Ở Lào thì họ thành công hơn. Tướng Phoumi Nosavan đã lên 
nắm quyền với sự giúp đỡ của họ và CIA. Thái độ không thích chế độ ông 
Diệm của hoàng thân Sihanouk làm tôi hy vọng có thể đạt được một kết quả
 nào đó trong việc báo động của tôi. Từ nơi đó, tôi cũng có thể viết thư
 cho một vài tờ báo Tây Ðức kèm theo với những hình ảnh do Orje chụp và 
gởi lá thư mà vị sư trẻ người Huế nhờ tôi chuyển đến Thượng tọa Thích 
Minh Châu. Ngoài ra cuộn phim có những âm bản chụp những xác chết làm 
tôi không yên lòng chút nào. Chừng nào những âm bản này chưa ra khỏi 
Việt Nam, thì tôi còn lo lắng cho an ninh của ngay chính bản thân tôi… 
 
 
 BS ERICH WULFF
Minh Nguyện (Dịch để tưởng niệm 8 vị Thánh tử đạo đêm 8/5/1963 tại Ðài Phát thanh Huế).
(bổ túc tháng 4/2007 và 4/2011) 
 
 Chú thích của người dịch:
(1) Vì bài tường thuật được phổ biến lần đầu tiên năm 1968 tại Tây
 Ðức trong lúc chiến tranh đang xãy ra dữ dội tại Việt Nam và để tránh 
những hệ lụy không tốt cho các nhân vật trong bản hồi ký, tên thật của 
rất nhiều người bạn của tác giả đã được ghi dưới một tên khác, như Tuân 
tức là Giáo sư Bùi tường Huân, sau này sẽ làm bộ trưởng và thượng nghị 
sĩ, Miên tức là Ðại sứ Bùi Diễm, Quát tức là Thủ tướng Phan huy Quát sau
 này v.v..
(2) Tức hai Giáo sư Raimund Kaufmann và Hans Hoelterscheid. Xem Ký
 ức của BS Wulff được phổ biến trên trang nhà Khuông Việt số 7: 
  http://www.khuongviet.com/kv-archive/PD63/Kyuc_Wulff.htm 
  http://www.thuvienhoasen.org/qd-tuongniem-14.htm
(3) Tức anh Tôn thất Kỳ, sinh viên y khoa . 
(4) Theo sự tiết lộ của GS Trần Hữu Thế, cựu bộ trưởng Giáo dục 
đối với GS Vũ văn Mẫu trong quyển sách „Sáu tháng pháp nạn“ (Giao Điểm 
xuất bản 2003), chính TGM Ngô đình Thục đã ra lệnh cho Thiếu tá Đặng Sỹ 
phải „dẹp“ đám đông phật tử tại đài Phát thanh Huế tối 8/5/1963. Trích: 
“Chính tối hôm Phật đản cũng đã có một bữa tiệc tại nhà Ngô đình 
Cẩn với sự hiện diện của TGM Thục, một số bộ trưởng và nhiều nhân vật 
cao cấp trong chính phủ. Đang giữa bữa ăn thì Tỉnh trưởng Nguyễn văn 
Đẳng và Phó Tỉnh trưởng Đặng Sĩ hốt hoảng xin vào trình bày tình hình 
rất căng thẳng vì mấy ngàn Phật tử đang tụ họp trước Đài Phát thanh. Vì 
phụ trách các vấn đề an ninh, Thiếu tá Đặng Sĩ xin chỉ thị để đối phó. 
Ngô đình Cẩn ngồi yên không nói gì, hay không muốn nói có lẻ vì đã
 đoán trước được ý kiến của ông anh Ngô đình Thục thế nào cũng chống đối
 thái độ hòa hoãn của ông ta trong vụ này. Sau báo cáo của Đặng Sĩ, TGM 
Ngô đình Thục đang ăn bổng ngưng lại, giơ tay ra hiệu cho Thiếu tá Đặng 
Sĩ “Dẹp…!”. Tỉnh trưởng và Phó Tỉnh trưởng lãnh chỉ thị lui ra. Sau đó 
thì các sự việc xãy ra như bác sĩ Erich Wulff đã tường thuật rõ ràng các
 điều mắt thấy tai nghe tại chỗ” (tr.215-216). 
(5) Vị sư trẻ này chính là Thầy Lê Mạnh Thát, theo sự xác nhận của
 Thầy với người dịch vào tháng 7/2006 tại Sai Gòn. Thầy cũng là người đã
 đặt câu hỏi với tác giả về triết gia Trần Đức Thảo.
 (6) Xem chú thích 1. 
 (7) Xem chú thích 1. 
Xem các bài tiếp theo : 
 
 1. Tuyệt thực tháng 5/1963 tại chùa Từ Đàm http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-86_4-5415_5-50_6-1_17-25_14-1_15-1/
2. Tường trình tại Liên hiệp quốc (tháng 9.1963):
http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-44_4-5420_5-50_6-1_17-4_14-2_15-2_10-486_12-1/
3. Trờ lại Việt Nam (tháng 4/1964):
http://www.thuvienhoasen.org/D_1-2_2-44_4-5416_5-50_6-1_17-4_14-2_15-2_10-486_12-1/
Vài hàng về BS Erich Wulff (1926-2010):
Ông sinh năm 1926 tại Tallin, thủ phủ của Estland (Esthonia- trước 
đây thuộc Liên Sô, nay trở lại là một quốc gia độc lập), con của một bác
 sĩ chuyên khoa Phổi, thuộc thiểu số gốc Đức và mẹ là một người Let 
(Letthuania - trước đây cũng thuộc Liên Sô, nay cũng trở lại là một quốc
 gia độc lập), lớn lên với 3 thứ tiếng (Đức, Esthoni và Nga).
Vào tháng 11/1939 ông theo gia đình về ở tại Ba Lan đang bị Đức quốc 
xã chiếm đóng, học trung học đến tháng 6/1944, sau đó đi quân dịch tại 
một quân chủng bộ binh tại miền đông nước Phổ và bị bắt làm tủ binh đến 
tháng 9/1945 sau khi Đức đầu hàng. Ông thi đậu bằng Tú tài trong niên 
khóa 1946/47 dành cho các cựu chiến binh tại Lippstadt, rồi theo học Y 
khoa và Triết học tại Koeln (Cologne) từ năm 1947 đến 1953, tốt nghiệp 
bác sĩ năm 1953. Ông nhận được học bổng quốc gia Pháp theo học tại Paris
 niên khóa 1953/1954, sau đó làm giảng nghiệm viên và học Cao học ngành 
Tâm thần tại Marburg, Bayreuth và Freiburg từ năm 1955 đến 1961, và đậu 
bằng Tiến sĩ Y khoa năm 1960. Ông làm giảng sư tại Đại học Y khoa Huế từ
 năm 1961 đến 1967 và bắt đầu dấn thân chính trị để báo động thế giới về
 cuộc thảm sát đêm Phật đản 1963 tại đài Phát thanh Huế và khởi động các
 hoạt động chống chiến tranh của Mỹ tại Việt Nam. (xem bài điều trần 
trước Tòa án Russel về chiến tranh Việt Nam : http://giaodiemonline.com/noidung_detail.php?newsid=497 )
Từ năm 1968 đến 1974 ông làm Bác sĩ trưởng viện Tâm thần Đại học 
Giessen và trình luận án Thạc sĩ Y khoa năm 1969. Ông tham gia các phong
 trào đòi hòa bình cho Việt Nam và chống đế quốc từ năm 1967, là thành 
viện sáng lập của Phong trào cải cách ngành Tâm thần, viết báo cho tờ « 
Das Argument » (Lý luận) và tờ »Sozialpsychiatrische Informationen » 
(Bản tin xã hội tâm thần). Ông lập gia đình năm 1972 với bà Edith 
Toubiana, có các con là Jonathan – 1975, Manuel – 1977 và Noemi – 1981. 
Năm 1974 ông được phong chức Giáo sư thực thụ tại Viện Tâm lý xã hội tại
 Đại học Y khoa Hannover, và nghỉ hưu từ năm 1994. Ông định cư tại Paris
 (quận 11) từ năm 2003.
Nhân dịp Đại lễ Phật Đản Liên hiệp quốc VESAK 2552 tháng 5/2008 tại 
Hà Nội ông được mời tham dự và có bài tham luận. Sau đó ông cùng gia 
đình về thăm lại Huế và Sàigòn. Ông qua đời ngày 31/1/2010 tại Paris. 
(Link: http://www.lieuquanhue.com.vn/index.php/1/4170.html )
 
Chụp ảnh lưu niệm tại Đài Tưởng niệm Thánh tử Đạo cùng chư Tăng và các học giả quốc tế đến Huế dự lễ Phật đản PL.2552
Các tác phẩm : 
 Vietnamesische Lehrjahre (Những năm dạy 
học tại Việt Nam), nxb Suhrkamp 1968/72/79. Psychiatrie und 
Klassengesellschaft (Tâm thần học và Xã hội giai cấp), nxb Fischer/ 
Frankfurt 1972, Eine Reise nach Vietnam (Một chuyến đi Việt Nam), nxb 
Suhrkamp/Frankfurt 1979, Psychisches Leiden und Politik (Nỗi đau tâm 
thần và Chính trị), nxb Campus/Frankfurt 1981, Wahnsinnslogik (Lý luận 
khùng), nxb Psychiatrieverlag/ Bonn 1995/2003, Irrfahrten, 
Autobiographie eines Psychiaters (Những chuyến đi lạc, hồi ức của một 
chuyên gia tâm thần), nxb Psychiatrieverlag/ Bonn 2001. Tác phẩm cuối 
cùng của ông là Vietnamesische Versoehnung (Hoà giải Việt) ghi lại hành 
trình về thăm lại Việt Nam tháng 5 năm 2008.
Minh Nguyện viết theo tài liệu của Đài truyền thanh và truyền hình WDR-Tây Đức  http://www.wdr5.de/sendungen/erlebte_geschichten/406425.phtml?print=1&i=1
__._,_.___