Tôi không biết vì sao, nhưng thực
sự trong thâm tâm mình, tôi vẫn nghĩ việc khất thực theo đúng nghĩa
nguyên bản của nó là một việc làm tốt, giàu lòng nhân ái, và sự san sẻ
tình yêu thương giữa con người với nhau. Không hiều sao, nhiều lúc ngồi
một mình, tôi hay nhớ đến hình ảnh những bóng áo vàng lặng lẽ đi giữa ồn
ào xe cộ của cuộc sống phố phường .
Chợt nhớ một lần, hồi tôi sống ở Nhan Trang, lúc đang đứng chỗ cây
xăng chờ đến lượt thì thấy bên kia đường có ba chiếc bóng áo vàng lặng
lẽ đi giữa dòng xe cộ ồn ào xuôi ngược. Họ những nhà tu hành khất thực
giữa phố đông lại vừa như tách khỏi phố đông, đi giữa cuộc đời mà dường
như đi ngoài cuộc đời, mải miết theo một lối riêng, lối đi của tâm
linh, của những điều thánh thiện cao cả .
Thấy tôi chăm chú nhìn theo bóng những người tu hành mà quên cả mở
nắp bình xăng, anh bán hàng khó chịu càu nhàu nhắc; còn kèm theo một câu
châm biếm, khi thấy nhà sư đã khuất ở phía ngã ba bên kia đường, ôi
dào, cái bọn đi ăn xin bây giờ còn đội lốt nhà sư. Có thể anh ta nói
đúng, nhưng ngay cả trường hợp có thật sự họ cũng không đáng trách đến
vậy, bởi vì chắc chắn phải bước đường cùng của kế sinh nhai họ phải giả
làm nhà sư đi khất thực. Xét trên một góc độ nào đó, việc những người
nghèo khổ phải đi kiếm từng miếng ăn bằng cách đóng giả người tu hành
như thế phải chăng có lỗi một phần của chính chúng ta, những tế bào của
cơ thể xã hội này.
Tôi ngậm ngùi rời cây xăng với những suy nghĩ mung lung buồn vời vợi.
Không reing6 gì anh bán hàng mà phải có rất nhiều người vẫn nghĩ về
những người khất thực như những người ăn xin. Thực ra, không phải như
vậy. Theo tôi biết, khất thực là một việc làm cao cả của Đạo Phật, một
mặt giữ gìn truyền thống, mặt khác thể hiện rõ tinh thần của người tu
hành theo Phật giáo, đã hoàn toàn từ bỏ của cải m chỉ giữ gìn thân mạng
nhờ sự bố thí của đại chúng, và hành động khất thực chính một hình thức
thân giáo, qua đó giúp người thực hiện việc bố thí có thể bớt được lòng
tham, biết sự từ bỏ , phát triển tinh thần vô ngã .
Tôi biết rằng, mỗi sớm mai khi bình minh thức dậy, những nhà tu hành
ấy đều đi khất thực, các vị ấy chỉ khất thực từ sáng sớm đến trước giờ
ngọ. Họ đi một mình hay từng nhóm, lần lượt từ nhà này qua nhà khác
không phân biệt, mắt nhìn xuống và chỉ yên lặng đứng trước mỗi cửa nhà
xem thức ăn có được đặt vào bình bát hay không. Những người thực hiện
hạnh bố thí chỉ cúng dường thức ăn đã nấu sẵn chứ không cúng dường đồ
vật. Chấm dứt buổi khất thực, các vị Tỳ-kheo trổ về tịnh xá để ăn trước
khi mặt trời đứng bóng. Thức ăn trong bình bát cũng được chia thành bốn
phần , một phần dành cho các vị đồng tu, nếu họ không xin được hay xin
được ít , một phần san sẽ cho trẻ em , người già , hay những người được
quan tâm khác. Một phần dành cho các chúng sanh không phải loại người
đang sống chung trong dục giới. Người khất thực chỉ ăn một phần đủ để
nuôi sống thân mạng , và xem thức ăn ấy như là thuốc chữa bệnh đói.
Trước khi ăn , các vị Tỳ-kheo đều có nhận thức trong chánh niệm về ý
nghĩa của việc thọ dụng thực phẩm và cầu nguyện cho chúng snh đươc an
lành.
Một lần khác khi đang ngồi uống cà phê cóc buổi sáng bên lề đường gần
cầu Nguyễn Văn Trỗi, tôi cũng bắt gặp bóng áo mâu sống lặng lẽ, an
nhiên mà tự tại giữa những hối hả đau chem của phố phường Sai gon khi
mưa đầu mùa đang kéo lại.Tách ra giữa dòng người ấy là hai cha con nhà
kia, người cha dừng xe, cẩn thận lấy mấy trái cây trong giỏ cúi đầu và
bỏ vào khay của nhà sư. Đứa trẻ chắc tầm mười hai, mười ba tuổi gì đó
cũng theo cha, cúi đầu nở một nụ cười vị tu hành. Sau khi chia tay, hai
cha con lại tiếp tục cuộc hành trính bon chen của mính. Riêng đứa trẻ ấy
vẫn ngây thơ ngoảnh lại nhìn nhà sư thêm lần nữa bằng đôi mắt trong veo
thánh thiện. Trong mắt cậu tôi thấy những ước mơ giản dị mà khiêm
nhường quá đỗi. Còn vị tu hành vẫn vậy, khoan thai giữa mấp mô của con
đường phía trước. Một mình khất thực với dân gian .
Không hiểu sao, tôi luôn bị ám ảnh bởi hình ảnh người tu hành khất
thực giữa phố đông , một màu vàng thanh cao mà bình dị đến lạ lùng. bản
thân những hình ảnh nó mang trong mình sự tương phản mà lại tương đồng
đến kỳ lạ. Đó là sự đối lập giữa thanh thản và sự phàm tục, giữa cái
động và cai tĩnh, giữa cái chậm rãi và sự ồn ào, giữa khiêm nhường và sự
phô trươn . Tuy nhiên nếu ngẫm kỹ ra thì nó lại không hoàn toàn là
tương phản mà nó như chiếc cầu nối giữa hai thế giới đạo và đời , một sự
đồng cảm thiêng liêng giữa chúng sinh muôn loài, nơi gặp gở của những
con người giàu lòng nhân ái , cùng một tâm tư vì sự cứu khổ của nhân
gian.
Tuy hình ảnh của những nhà tu hành áo vàng đã không sòn xuất hiện
trong phố đông bình minh như trước nữa, nhưng trong ký ức của tôi, vẫn
nguyên vẹn những hình ảnh đẹp như sự kết hợp hài hòa giữa đạo và đời của
chúng sinh muôn loài .
Đoàn Đại Trí