‘I am Đàn Bà’ là một tác phẩm ‘kinh dị’ nhất của Y Ban. Những danh 
từ như kinh dị, hồn nhiên, đẹp giản dị chính là những từ ngữ dùng để 
hình dung phong cách và đặc sắc của tác giả trên văn đàn Việt Nam ngày 
nay.

‘I am Đàn Bà’ là một quyển sách gồm 
nhiều chuyện ngắn, và cũng như sự biểu hiện của tên sách, những chuyện 
ngắn đó đều là chuyện của đàn bà. Với cá nhân tôi, câu chuyện dễ thương 
nhất là ‘Cái Tý’; câu chuyện diễn tả tâm lý đàn bà độc đáo nhất là ‘Tự’;
 nhưng câu chuyện để lại ấn tượng sâu xa nhất lại là câu chuyện đầu tiên
 cũng với đề tài ‘I am Đàn Bà’.
Như Y bạn đã viết trong nhập đề cho bài 
‘Chuyện Nhỏ Xóm Nghèo’: “Nơi tôi ở là một xóm lao động nghèo, vốn nhiều 
phức tạp vì cái nghèo mà ra, nhưng cũng đầy tình thân từ cái nghèo mà 
đến”. Nhập đề này chẳng những thích hợp cho chuyện nhỏ lặt vặt xảy ra 
trong một xóm nghèo, nó cũng rất thích hợp dùng cho cốt chuyện này. ‘I 
am Đàn Bà’ là một câu chuyện viết về người phụ nữ tên Thị đi làm thuê 
bên xứ người. Chuyện của Thị khởi đầu chính vì cái nghèo… nàng đã phải 
bỏ lại chồng con, sang nước ngoài làm người giúp việc để kiếm tiền xây 
lại căn nhà dột nát đã không còn khả năng chống chọi nổi với phong sương
 cùng bão táp.
Ở nơi đất khách quê người, Thị không 
biết tiếng người bản xứ, không bạn bè, không cơ hội tiếp xúc với xã hội.
 Thị như sống trong một lâu đài trên hoang đảo. Người duy nhất mà Thị 
tiếp xúc hàng ngày chính là ông chủ của Thị – một người bị liệt toàn 
thân sau một tai nạn xe họa tại Đài Loan. Thế giới của Thị còn lại chỉ 
là hết lòng chăm sóc người bệnh này. Tuy ngôn ngữ bất đồng và Thị cũng 
chẳng biết ông chủ có còn khả năng lắng nghe được những lời thủ thỉ của 
Thị không? Nhưng Thị đã tâm sự rất nhiều với người, và nàng đã trút hết 
tất cả tình thương như tình mẹ, tình con, tình vợ, tình bạn, tình người…
 cho người đàn ông mà Thị không hề quen biết!
Và, vấn đề mang tính nhân bản đáng được 
chúng ta quan tâm ở đây chính là một khi mối liên hệ ấy, chủ và tớ, bắt 
đầu len lõi sự bằng tình yêu thương nam nữ, sự can thiệp của xúc chạm 
xác thịt thì cũng từ đó không biết bao nhiêu chuyện vui buồn lẫn không 
ít phiền toái, luân lý đạo đức bắt đầu nãy sinh. Để rồi đi đến một kết 
cục bi thương đầy nước mắt. Sau khi chuyện đã vỡ lở, bà chủ đã tố cáo 
Thị với tội “quấy rối tình dục” và Thị phải đối diện trước vành móng 
ngựa, Thị không biết bào chữa cho mình, và cũng không tiền thuê người 
biện hộ, Thị chỉ biết nói ra một câu nửa tiếng Anh nửa tiếng Việt: ‘I am
 đàn bà’ cùng với những lời cầu khẩn xin tha tội cho hành vi thiếu lý 
trí của mình. Trong nhà giam, Thị xấu hổ, Thị muốn ôm con khóc cho thật 
nhiều, Thị chỉ muốn về với chồng, với con, với cái làng xóm nghèo nàn 
nhưng rất dễ thương của Thị…câu chuyện chấm dứt đầy tình thương và tình 
thương đó cũng từ cái nghèo mà đến.
Nhà văn Dạ Ngân cho rằng: “Thị là một 
thân phận phụ nữ nông dân điển hình trong thời đại. Qua chuyện ngắn ấy, Y
 Ban đã vượt lên chính mình, đã thoát khỏi chuyện tình cảm đàn ông, đàn 
bà để hướng vào thân phận đàn bà chung hơn, lớn lao hơn”. Tôi rất đồng ý
 về những lời bình giá này, đồng thời tôi cảm thấy: tác giả đã dùng đủ 
mọi phương cách bào chữa cho sự lỗi lầm của Thị, để giữ lại tấm lòng 
thương hại của đọc giả cho số phận của người đàn bà bạc bẽo này. Cũng 
như diễn tả lúc Thị áp mặt vào má ông chủ khóc òa khi chuyện bất ngờ xảy
 ra: ‘Ông chủ đã cảm nhận được cái hôn của Thị, thân thể của người run 
lên, và điều kỳ diệu hơn ông đã khóc và tay ông đã nắm được tay Thị’. Sự
 kích động trong lòng của một người tàn phế đã đem lại một kỳ tích mà 
chính khoa học và y học ngày nay cũng không thể nào giải thích được.
Như vậy phải chăng Thị là một dâm phụ? 
Và Thị có tội hay không? Tôi tin rằng đây là những câu hỏi mà mỗi đọc 
giả đều nêu ra sau khi đọc xong câu chuyện này. Tôi cũng tin rằng đây là
 những đề tài mà chúng ta có thể tranh luận với nhau miên miên bất 
tuyệt. Tôi nghĩ, tội “quấy rối tình dục” không nghiêm trọng bằng tội 
“tình dục xảy ra chưa được đối phương chấp thuận” (sex without consent).
 Theo định nghĩa trong pháp luật ngày nay, tình dục chưa được sự đồng ý 
của đối phương là một tội nặng và đã được quy nạp vào hàng liệt của tội 
hãm hiếp (rape). Nhưng luật pháp không ngoài hai chữ nhân tình!
Trong xã hội Tây Phương, tình dục không 
bị coi là một chuyện tội lỗi, xấu xa, nó được xem là hành động thiêng 
liêng nhất của vạn vật. Theo học thuyết Thái Cực của Đạo giáo: ‘…Vô Cực 
chi chân, nhị ngũ chi tinh, diệu hợp nhị ngưng. Càn đạo thành nam, Khôn 
đạo thành nữ. Nhị khí giao cảm, hóa sinh vạn vật. Vạn vật sinh sinh nhị 
biến hóa vô cùng yên…’. (無 極 之 真 , 二五 之 精 , 妙 合 而 凝 . 乾 道 成 男 , 坤 道 成 女 .
 二 氣 交 感 , 化 生 萬 物 . 萬 物 生 生 而 變 化無 窮 焉 ). Có nghĩa là vạn vật hình 
thành đều khởi đầu từ sự hòa hợp giữa âm và dương, thiếu một không được,
 nó là gốc gác của thiên lý và là đầu đuôi của vạn vật.
Trong khi trên quan điểm Phật giáo, 
thường thì chúng sinh khi sinh vào thế giới Ta-bà này đều do lòng ái 
dục. Thì ở đây có vẻ như thừa nhận một thực tế rằng đã là con người, 
sinh mạng của ta đã được bắt đầu dưới sự giao hợp của hai thái cực này. 
Cho nên tình dục là một sức thôi thúc, là một nhu cầu trong đời sống 
hàng ngày của chúng ta, vì nó đã ngấm ngầm trong tiềm thức trước khi ta 
chào đời. Tuy nói là một nhu cầu trong đời sống, nhưng nó không phải là 
những nguồn năng lượng tối quan trọng để nuôi dưỡng cho thân hài chúng 
ta. Những lời Phật dạy; những giáo dục trong gia đình; những tư tưởng 
thủ cựu của truyền thống; những ý niệm và chuẩn mực của đạo đức; cho đến
 những lập hiến của pháp luật… đều là những quy tắc để ngăn trừ và ràng 
buộc sự phóng đãng của tình dục.
Theo tôi biết, ấn phẩm của quyển sách ‘I
 am Đàn Bà’ đã từng bị thu hồi và đã gây lên dư luận sôi nổi trên nền 
văn hóa tại Việt Nam. Có nhiều người cho rằng sự thu hồi là do ‘tác giả 
quá sa đà vào khía cạnh sex’. Chắc vì tôi đã định cư tại Úc lâu ngày, 
nên tôi chẳng cảm thấy lối thể hiện trong sách có gì gọi là ẩm ướt hay 
buông tuồng như những lời dư luận. Ngược lại tôi cho rằng đó là một 
quyển sách rất thuần về văn học, giàu tính nhân bản, và lay động lòng 
người. Nhưng đồng thời tôi cũng rất hiểu lý do vì sao nó đã không được 
ấn hành. Việt Nam vẫn còn là một nước thủ cựu khi so với những nước đã 
được tay hóa lâu ngày. Có người gọi sự thủ cựu đó là lạc hậu, có người 
gọi đó là hủ lậu, nhưng chúng ta nên biết, rất nhiều vẻ đẹp của dân tộc 
đã được hiển hiện trong sự thủ cựu đó. Đức hạnh của phụ nữ mà nho giáo 
ngày xưa đã quy hoạch ra như: công dung ngôn hạnh, tam tùng tứ đức, 
tương phu giáo tử, trinh trung triết liệt chính là những vẻ đẹp nội tâm 
của đàn bà mà xã hội ngày nay cho là lỗi thời. Cá nhân tôi cũng cho rằng
 đây là những đòi hỏi quá đáng mà cha ông người xưa đã đem dành cho đàn 
bà. Nhưng có một điều chúng ta phải công nhận, phụ nữ của một thôn quê 
nghèo nàn lại có một vẻ đẹp phi thường hơn phụ nữ thành thị – đó là vẻ 
đẹp đầy phẩm chất của người vợ hiền và người mẹ Việt Nam.
Tôi không biết bài viết này có được dịp 
đăng trên tạp chí hay trên website của Phật Giáo. Nhưng tôi vẫn muốn 
viết ra một chút ít hiểu biết của mình trong vấn đề ngăn trừ tình dục 
trong Đạo Phật.
Đứng vào quan điểm Phật Giáo, đối với 
hành động của Thị, luận điểm không phải ở nơi đúng hoặc sai như trên 
luật pháp hay tình người, mà là ở cái xâm chiếm của tình dục trong tâm 
thức của chúng sinh. Trong giáo pháp của Phật, trì giới là một phương 
pháp kềm chế sự buông thả và lộng hành của ý dục; thiền quán là phương 
pháp diệt trừ ý dục bằng cách nhìn sâu, nhìn kỹ để chứng nghiệm cái thật
 tướng của các sự vật xung quanh chúng ta. Thiền quán gồm hai loại:
1. Đối trị quán: chuyên
 dùng một loại quán tưởng để đối phó một loại ý niệm sai lầm, ví dụ như 
‘Quán Từ Bi’ là để đối trị sân hận; ‘Quán Bất Tịnh’ là để đối trị tham 
dục - nói trực tiếp hơn về pháp môn này, người tu luyện sẽ ngồi yên 
lặng, định tỉnh tâm thần, gom góp suy tư lại một chỗ, chuyên chú tưởng 
nghĩ về cái bất tịnh, xấu xa và vô thường của cái thể xác con người. Hy 
vọng sự bất tịnh đó sẽ làm cho ta mất đi lòng ham muốn đối với một thể 
xác khác. Nhưng dĩ nhiên là… nói dễ làm khó! Những gì đã biết, đã hiểu 
và có thể trình bày thao thao bất tuyệt đều là chỉ thượng đàm binh, đến 
khi ra trận đối địch mới biết được sự khó khăn của cái hành. Thường có 
câu: “Tình nhân nhãn trung xuất Tây Thi”. Trong ánh mắt của ta, người 
thương yêu thường là người xinh đẹp như Tây Thi tái thế. Dơ bẩn cũng trở
 thành tinh khiết; xấu xí cũng trở thành đẹp đẽ; đắng cũng trở thành 
ngọt! Tôi đã từng trò chuyện với một người bạn thân ‘đồng tính luyến’, 
tôi hỏi: “Sao có thể thỏa mãn tình dục từ một nơi dơ bẩn nhất trong cơ 
thể của con người?’, anh ta đáp: “Chỗ dơ bẩn nhất là cái miệng của con 
người!” Anh ta cũng đúng một phần nào… Họa tùng khẩu xuất, bịnh tùng 
khẩu nhập, tất cả đều khởi sự từ cái miệng của chúng ta! Nhưng câu trả 
lời này cho ta biết, một khi đã đam mê trong tình dục, tất cả đều trở 
nên hoàn hảo và tốt đẹp. Cho nên tôi cho rằng phương pháp này rất khó 
hành!
2. Chánh quán: quán 
tưởng các sự vật đều là không có thật. Đối với phẩm chất của phàm phu 
chúng ta, tôi cho rằng pháp này càng khó.  Rõ ràng thấy trước mắt nhưng 
lại quán tưởng là không. Tuy đã hiểu được lý lẽ của cái không và cái có,
 nhưng không có nghĩa là ta có thể làm cho cái tâm không còn chấp cái 
không hoặc cái có!
Luận điểm trên chỉ là nhận định và kinh 
nghiệm cá nhân. Đạo Phật bao gồm vạn thiên pháp môn, hành giả cần phải 
tìm ra một đường hướng thích hợp cho mình để tu luyện. Nhiều khi chúng 
ta cần phải áp dụng đường hướng khác nhau để đạt đến mục đích. Cũng như 
đường này bi kẹt xe, thì ta chọn đường khác. Nếu như quán bất tịnh không
 thành công thì chúng ta có thể quán niệm danh hiệu của Phật. Nhiều khi 
phương pháp đơn giản trực tiếp nhất lại là phương pháp nhiệm mầu nhất!
Dục vọng của con người nhiều lúc chỉ bị 
khêu dậy từ ngoại duyên qua những cảnh tượng ta tiếp xúc; cũng nhiều khi
 nó phát xuất từ những vật dụng gồm nguyên liệu kích thích như rượu. Cho
 nên cấm uống rượu là một giới cơ bản trong Ngũ giới mà tất cả thiện nam
 tín nữ đã quy y với Phật đều phải thọ trì. Và ‘trì giới’ chính là sự tu
 tập sơ cơ trước khi chúng ta có thể đến với định, từ định ta mới có thể
 phát huệ. Đây chính là Giới Định Huệ trong Đạo Phật để đưa chúng ta ra 
khỏi vòng sinh tử luân hồi.
Trong kinh Pháp Cú có nói:
“Dầu sống một trăm năm,
Ác giới, không Thiền định,
Tốt hơn sống một ngày,
Trì giới, tu Thiền định”.
Thiền quán trong Đạo Phật thật ra có thể
 áp dụng vào bất cứ mội trường hợp và bất cứ một cuộc sống nào. Phương 
pháp này có thể giúp ta phủi đi lớp bụi của u minh như sân hận, yêu 
thương, ham muốn, ganh tị vv.... Ví dụ như khi ta đang giận hờn một ai, 
ta có thể cố gắng nghĩ lại những ưu điểm hoặc những điều mà ta cho là 
hay, là tốt của người đó. Tôi tin rằng, lửa giận lập tức sẽ được nguôi 
đi một phần nào. Và dĩ nhiên phương pháp ngược lại có thể áp dụng vào 
khi ta bị quấy rối băn khoăn trong vấn đề tình cảm...Thiền quán nói khó 
mà dễ, vì nó không sâu xa trừu tượng như những phương pháp thiền định 
khác, như nghe lại tánh nghe hay nghe lại âm thanh của một bàn tay. 
Nhưng thiền quán cũng nói dễ mà khó, vì khi lửa vô minh bùng cháy, trí 
huệ ta sẽ bị lu mờ, cốt yếu là làm sao tìm ra một kẽ hở để ta tỉnh táo 
lại hoặc nới lỏng lại lòng sân hận, như… ta có thể uống một ly nước, hít
 thở không khí trong lành, tản bộ bên ngoài, hoặc làm vài động tác vận 
động cơ thể... một khi lửa giận được phai đi, ta bắt đầu thực hành thiền
 quán.
Thật ra… sự khó và dễ vừa nói trên ít nhiều cũng tùy ở nơi ta!
Ah Yin 1/11/10