Thiền sư Đạo Nguyên
(1200-1252) là một trong những nhà tư tưởng lớn nhất của nước Nhật. Mồ côi cha
từ năm hai tuổi, đến năm bảy tuổi thì mẹ lại mất. Khi nhìn thấy xác mẹ được đưa
lên giàn hỏa ông đã khóc, thế nhưng có thể là ông đã không khóc như một đứa bé.
Nhìn thân xác mẹ cháy trong lửa đỏ và những đám khói bốc lên, có lẽ ông đã hình
dung ra cho mình một con đường. Được một người chú đem về nuôi, thế nhưng năm
mười hai tuổi thì ông bỏ nhà trốn vào vùng núi Hiei đi tìm một người chú khác
là một nhà sư sống trong vùng này, để xin được vào chùa.
Trong Đại Bát Niết Bàn
Kinh (Mahaparinirvana-sutra) có một
câu như sau: "Trong số tất cả các dấu chân, chỉ có dấu chân voi là to lớn
nhất. Trong số tất cả những thứ suy tư, chỉ có sự suy tư về vô thường là quan
trọng nhất". Tất cả mọi sự vật đều phù du. Tất cả các thứ cấu hợp đều tan
rã. Tất cả những gì sinh ra đều sẽ đi đến cái chết, và cái chết thì cũng chỉ là
một sự chuyển hóa trong khung cảnh của vô thường.
Kinh sách thường nêu
lên bốn dấu ấn (caturlaksana) căn bản
của toàn bộ giáo huấn Phật Giáo, đấy là: tất cả mọi hiện tượng cấu hợp đều vô
thường, tất cả những gì hư cấu đều khổ đau, tất cả mọi hiện tượng đều không có
cái ngã, niết-bàn là an bình. Dấu ấn thứ nhất là vô thường và đấy cũng chính là
cái nhìn của Phật Giáo vào thế giới. Cái nhìn ấy giúp chúng ta nhận ra sự chuyển
động thường xuyên và cùng khắp của mọi hiện tượng trong thế giới, và thật ra
thì thế giới cũng chỉ gồm toàn là hiện tượng. Mọi hiện tượng đều xô đẩy nhau, níu
kéo nhau để cùng chuyển động và xoay vần trong vòng sinh diệt.
Quá trình chuyển động,
hủy hoại và sinh thành đó của mọi hiện tượng thường xuyên tiếp diễn bên ngoài
thế giới và cả bên trong tâm thức của mỗi con người. Sáng sớm mở cửa nhìn ra
ngoài trời, mây vẫn bay, chim vẫn hót, bước ra đường, phố chợ vẫn ồn ào. Thế giới
dường như vẫn còn nguyên, vẫn giống như ngày hôm qua. Thế nhưng thật ra thì mỗi
chúng ta đã lật quyển nhật ký của đời mình sang một trang mới, và pho sách lịch
sử khổng lồ của vũ trụ cũng đã sang trang. Một đêm dài hay cả một kiếp người
cũng chỉ như một dấu phẩy hay một dấu chấm trên dòng chữ bất tận của vô thường.
Ra đường trông thấy một
cô gái thật đẹp, thế nhưng bước thêm vài bước nữa thì chúng ta cũng có thể bắt gặp
một bà lão lưng còm, da nhăn và tóc bạc. Vô thường đôi khi thật lộ liễu nhưng lắm
khi cũng rất kín đáo, hay ít ra cũng vượt khỏi sự suy nghĩ thường tình của chúng
ta. Phật Giáo phân chia vô thường làm hai thể loại khác nhau: vô thường thô thiển
và vô thường tinh tế. Vô thường thô thiển là đôi má nhăn nheo trên gương mặt của
một bà lão, là tiếng nổ lách tách của những thanh củi đang cháy trên thân xác người
mẹ của Đạo Nguyên, hay những đám khói đen bốc lên từ giàn hỏa. Vô thường thô
thiển cũng có thể rất bình dị và yên lặng như một bọt bong bóng ở thềm sân vào
một buổi sáng trời mưa.
Vô thường tinh tế thì giống
như một vì sao giữa trời. Hình ảnh và vị trí của ngôi sao Bắc Đẩu mà chúng ta
trông thấy hôm nay là hình ảnh và vị trí của nó cách đây đã 430 năm ánh sáng. Vô
thường tinh tế cũng là con ruồi đang vờn bay trước mặt, một giấc mơ đêm qua, một
thoáng xúc cảm trong tim hay một niềm hạnh phúc trong lòng. Cái vô thường tinh
tế cũng là những biến đổi trong từng đơn vị của tri thức trên dòng chảy của nó.
Mỗi đơn vị vi tế ấy tiếp nhận các vết hằn đủ loại của nghiệp để nhào nặn chúng,
tiêu hóa chúng và để chuyển sang cho một đơn vị khác. Những đơn vị ấy của dòng
tri thức nối tiếp nhau để đưa chúng ta phiêu du trong giấc mơ đêm qua và trong
những giấc mơ khác vào những đêm hôm trước và cả trong cơn lốc của thế giới hiện
tượng đang diễn biến chung quanh chúng ta hôm nay.
Riêng vô thường hay là
dấu ấn thứ nhất trong số bốn dấu ấn của giáo huấn Phật Giáo còn được phân chia
thành bốn dấu ấn thứ yếu là: tất cả những gì kết hợp sẽ xa lìa, tất cả những gì
sinh ra đều sẽ chết, tất cả những gì được kiến tạo sẽ sụp đổ, tất cả những gì kết
hợp rồi sẽ tan rã. Tất cả bốn dấu ấn này đều là những nguyên nhân cội rễ mang lại
khổ đau. Vì thế có thể bảo rằng vô thường chính là khổ đau, và nếu vô thường là
bản chất của mọi hiện tượng thì khổ đau cũng sẽ cùng với mọi hiện tượng và cả
vô thường bàng bạc và chuyển động trong thế giới, trong từng đơn vị vi tế của
dòng tri thức cho đến từng tế bào và cả trong tâm thức của mỗi con người.
Khổ đau lại được kinh
sách chia làm ba thể loại: khổ đau của khổ
đau (dukkha dukkha), khổ đau vì vô thường (viparinama dukkhata) và khổ đau liên quan đến thể dạng trói buộc của
sự hiện hữu (samskaradukkhata). Khổ đau của khổ đau là những khổ đau lộ
liễu nhất và thô thiển nhất: sinh lão bệnh tử và phải kết hợp với những gì mà
mình không muốn. Khổ đau tinh tế nhất và khó nhận thấy nhất là khổ đau của sự hiện hữu, đấy là khổ đau
vì phải hình thành trong thể dạng trói buộc tạo ra bởi tác động của nghiệp, một
hình thức lo âu mang tính cách hiện sinh hay là một sự bất toại nguyện sâu xa,
thường xuyên và ẩn kín về sự hiện hữu của chính mình trong thế giới luân hồi (samsara), nói một cách cụ thể hơn thì đấy
là cái khổ đau của sự biến động thường xuyên của năm thứ cấu hợp còn gọi là ngũ
uẩn tạo ra một cá thể.
Khổ đau vì vô thường được xếp vào thể loại thứ hai tức là nằm vào
giữa hai thể loại trên đây, đấy là: phải xa lìa những gì mà mình yêu thích và
không chiếm hữu hay thực hiện được những gì mà mình thèm muốn. Chúng ta muốn được
trẻ mãi, muốn giữ mãi khả năng tinh thần cũng như sự linh hoạt của thể xác, muốn
những người thân sống mãi và lúc nào cũng yêu thương mình. Thế nhưng tất cả đều
sẽ ra đi, tất cả đều xa lìa, tất cả đều đổ vỡ. Khi ôm hôn một đứa bé hay ẳm một
hài nhi vào lòng và đồng thời nếu chúng ta cũng ý thức được rằng rồi đây chúng cũng
sẽ phải đau yếu và già nua thì chúng ta lại càng cảm thấy yêu thương chúng hơn
và siết chặt chúng hơn vào lòng mình. Khổ
đau của vô thường không lộ liễu như khổ
đau của khổ đau thế nhưng nó cũng không đến nỗi quá khó để nắm bắt như khổ đau của sự hiện hữu. Tuy nhiên không
mấy khi chúng ta ý thức được những thứ khổ đau ấy một cách thật minh bạch, đấy chẳng
qua là vì thông thường của chúng ta không chấp nhận hoặc không nhìn thẳng vào mặt
loại khổ đau này.
Khổ đau của khổ đau là những gì không lẫn tránh được, thật vậy nào
chúng ta có tránh khỏi được sinh, lão, bệnh, tử và những gì mà mình không thích
đâu. Chúng ta chỉ biết tìm cách làm ngơ hoặc nhẫn nhục chịu đựng những thứ khổ
đau ấy. Do đó khổ đau của khổ đau mang tính cách "thụ động" một cách
khá rõ rệt. Đối với khổ đau của sự hiện hữu
cũng thế, chúng ta không thể chối bỏ ngũ uẩn của mình được, không thể trút bỏ dễ
dàng những lo buồn và ray rứt trong tâm thức mình. Những khổ đau ấy mang tính tự
tại nơi chính sự hiện hữu của chúng ta, vì thế nó cũng là những gì rất "thụ
động" mà chúng ta phải gánh chịu.
Trái lại khổ đau vì vô thường là thứ khổ đau khuấy
động nhất, nguy hiểm nhất vì chính những thứ khổ đau ấy đã tạo ra mọi sự phức tạp
và khó khăn cho toàn thể xã hội con người. Tại sao lại như thế? Bởi vì con người
luôn tìm cách đương đầu với vô thường, không chấp nhận xa lìa những gì mình yêu
thích và phải chiếm hữu cho bằng được những gì mình ham muốn. Con người luôn
tìm cách phấn đấu dưới mọi hình thức để chống lại vô thường, thế nhưng sự chống
chỏi ấy chỉ mang lại tuyệt vọng mà thôi.
Nếu con người tỏ ra
cam phận và nhẫn nhục trước khổ đau của
khổ đau và khổ đau vì sự hiện hữu
thì lại phản ứng một cách rất hăng say và tích cực trong việc đương đầu với vô
thường trên mọi lãnh vực. Đây cũng là mối quan tâm và âu lo chủ yếu nhất trong mọi
sinh hoạt của con người, và cũng là nguyên nhân cội rễ sâu kín nhất mang lại khổ
đau cho họ.
Đang dọn bàn ăn ta thấy
một con ruồi bay trước mặt, ta bèn cầm ngay một chiếc quạt và rình rập nó, chờ
lúc nó đậu xuống thành bàn thì đập bẹp nó để bảo vệ lấy cái vô thường của chính
mình. Vào một đêm trăng sao vằng vặc, thay vì thả hồn mình vào vũ trụ để hòa nhập
với vô thường và sự vận hành của các vì tinh tú, thì ta lại cầu khẩn đủ mọi thứ,
chẳng hạn như cầu xin tình yêu của một người nào đó đối với mình luôn được bền
vững, và quên mất rằng các vì sao mà mình trông thấy khi ánh sáng của nó đến được
địa cầu thì một số cũng đã nổ tung và biến mất từ lâu rồi. Một buổi sáng trời
mưa, khi trông thấy những bọt bong bóng ngoài sân thì thay vì liên tưởng đến
cái mong manh của kiếp nhân sinh và nghĩ rằng mình sẽ có một buổi sáng thanh thản
để ngắm nhìn những giọt mưa vỡ trên thềm cửa để tìm về với chính mình, thì lại
càu nhàu oán trách nếu trời cứ mưa như thế này thì làm sao mà đi dạo phố được!
Những gì vừa nêu trên tuy
thật bình dị và tầm thường thế nhưng chúng đã phản ảnh một cách vô cùng kín đáo
sự nắm bắt và bám víu vào "cái tôi" và cái "của tôi" mà vị
đại sư Buddhadasa từng thuyết giảng. Khi nghe nói đến "cái tôi" hay
cái "của tôi" thì phản ứng của chúng ta là nghĩ ngay đến những gì thật
quan trọng và nguy hiểm, thế nhưng thực ra thì "cái tôi" và cái
"của tôi" ấy là những cảm tính tàng ẩn bên trong những hành động thường
nhật thật nhỏ nhặt và bình dị của mình nhằm để chống lại vô thường.
Chúng ta quên rất
nhanh một giấc mơ đêm qua. Thật thế không biết bao nhiêu chuyện còn đang chờ đợi
mình vào ngày hôm nay. Chỉ toàn là bận rộn. Thế nhưng chúng ta cũng quên rằng tất
cả những thứ bận rộn ấy lại cũng chỉ là một giấc mơ. Sự khác biệt giữa một giấc
mơ và những thứ bận rộn mà chúng ta gọi là hiện thực thì cũng giản dị thôi.
Trong giấc mơ chỉ có phần tri thức vẫn tiếp tục sinh hoạt, ngũ giác "ngủ
yên" không tác động hoặc gần như không tác động đến sự vận hành đó của tri
thức. Dòng tri thức không bao giờ ngưng nghỉ kể cả trong giấc ngủ hay sau khi
chết, những gì tích tụ và lưu giữ trên dòng tri thức luôn tương tác với nhau
qua một quá trình biến đổi liên tục. Trong giấc ngủ thì tâm thức được thả lỏng
vì không bị những sự cảm nhận của ngũ giác tấn công nó, dòng tri thức nhờ đó sẽ
làm hiện ra trong tâm thức những hậu quả phát sinh từ quá trình tương tác của
những gì mà nó ghi nhận và lưu giữ được. Có những giấc mơ thật đẹp, thế nhưng
cũng có những giấc mơ hãi hùng, tất cả đều phản ảnh những gì mà dòng tri thức đã
tồn lưu, nếu nói theo kinh sách thì đấy là những vết hằn của nghiệp được ghi đậm
trên dòng tri thức. Chúng hiện lên trong giấc mơ như những "tiền vị"
của khổ đau mà chúng ta sẽ nếm được một cách thật sự bằng ngũ giác trong những
bối cảnh thích nghi vào một thời điểm nào đó sau này.
Thật ra thì lúc nào chúng
ta cũng sống trong một giấc mơ triền miên mà thôi, có lúc chỉ có dòng tri thức
hoạt động làm hiện ra những giấc mơ trong khi ngủ, có lúc, chẳng hạn như khi đang
thức, thì ngũ giác chen vào để khuấy động dòng tri thức đó, tấn công nó và tạo
ra một trận chiến thật hỗn loạn. Những lúc mà trận chiến ấy đang bùng lên và tiếp
diễn thì chúng ta gọi đấy là hiện thực. Những người hành thiền thường bảo rằng
khi họ tréo chân ngồi xuống trong yên lặng thì đấy là cách giúp họ dẹp yên cuộc
chiến ấy.
Bảy tuổi đầu khi nhìn
xác mẹ trên giàn hỏa và những đám khói bốc lên thì cuộc chiến ấy cũng đã bùng
lên thật mãnh liệt trong lòng cậu bé Eihei, một cuộc chiến chống lại với vô thường.
Năm mười hai tuổi thì cậu bé đã hiểu được phải làm thế nào để chiến thắng và dẹp
yên cuộc chiến ấy. Cậu bé Eihei sau này chính là vị đại thiền sư Đạo Nguyên.
Mùa Vu Lan 2555
Bures-Sur-Yvette,
02.09.12
Hoang
Phong